Luyện tập kỹ năng thu thập dẫn chứng khi làm bài văn nghị luận – Luyện thi học sinh giỏi môn văn
1. Thu thập bằng chứng.
* Thu thập bằng chứng vĩnh viễn:
Vì sức mạnh của dẫn chứng ngang với lập luận, đôi khi còn thuyết phục hơn cả lập luận trong bài văn của học sinh nên trước khi viết một bài văn hay, cần cân nhắc trong việc lựa chọn dẫn chứng. Để có thể lựa chọn dẫn chứng theo yêu cầu của văn học nghị luận, người viết phải có một kho dẫn chứng dồi dào, phong phú. Di sản này được hình thành từ việc đọc, đọc nhiều, nhớ nhiều, sưu tầm hàng nghìn cuốn sách mới trong một vài bài viết. Bạn nên có hàng trăm câu thơ trong đầu trước khi chọn trích dẫn một vài câu thơ có liên quan. Kiến thức về nhiều tác phẩm hay là cần thiết để đánh giá đúng giá trị của một tác phẩm chân chính. Vì vậy, người viết phải học cách thu thập bằng chứng thông qua việc đọc thường xuyên. Trau dồi, nghiên cứu, ghi chép từ nhiều nguồn khác nhau trong quá trình tự đọc và mở rộng kiến thức văn học là phẩm chất cần có của học sinh giỏi.
Chẳng hạn, khi bàn về phong cách sáng tác và quan niệm nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu qua truyện ngắn Thuyền đã xahọc sinh giỏi phải biết liên hệ bài viết của mình với các ví dụ khác trong truyện ngắn Tranh Làng quê Mảnh trăng cuối rừngcuốn tiểu thuyết Dấu Chân Người Lính, Người Phụ Nữ Trên Chuyến Tàu Tốc Hành…nhìn thấy sự vận động và phát triển dưới cái nhìn hiện thực về cuộc sống và con người của tác giả trong các thời đại khác nhau. Khi thảo luận về trích xuất miền bắc Việt Nam Tố Hữu, học sinh giỏi cần có ý thức cố gắng mở rộng dẫn chứng ở các bài thơ khác trong tập thơ Việt Bắc so với các tập thơ khác. Từ đó ra trận, Máu và hoa… để thấy sự thống nhất và phát triển của đời thơ Tố Hử gắn liền với cách mạng dân tộc.
* Thu thập chứng cứ một cách có hệ thống và chính xác:
Để có được dẫn chứng phong phú, lựa chọn và vận dụng linh hoạt, vận dụng nhanh trong quá trình viết bài, người viết phải có ý thức thu thập dẫn chứng một cách thường xuyên, có hệ thống, dưới sự hướng dẫn, đánh giá của giáo viên. Học sinh sẽ thu thập bằng chứng trong sổ tay hoặc kho lưu trữ điện tử.
– Học sinh được hướng dẫn theo danh mục các văn bản, tác phẩm cần đọc theo từng yêu cầu kiến thức, từng giai đoạn học tập để việc đọc và thu thập không trùng lặp.
Ví dụ: Học sinh học văn học trung đại Việt Nam, xin mời đọc các văn bản sau: Giáo trình Văn học trung đại Việt Nam, Thơ văn trung đại, Văn học trung đại một cách văn hóa, Thơ Đường Nôm, Thơ văn trung đại Việt Nam, Thể loại thơ Lý Trần… Đọc để thấy: tổng quan về lịch sử phong kiến Việt Nam với ảnh hưởng của nó đối với văn học; hiểu được sự giao thoa giữa văn học và các lĩnh vực văn hóa, chính trị, tư tưởng của con người thời đại; hình dung đặc trưng thi pháp để tiếp cận và giải mã các sự kiện văn học trung đại; hiểu biết chung về đặc điểm của một số thể loại văn học cụ thể; những tác giả tiêu biểu có đóng góp quan trọng cho sự phát triển của văn học… Những yêu cầu đọc hiểu này không chỉ giúp học sinh hiểu văn học trung đại mà còn chuẩn bị cho các em nền tảng kiến thức, từ đó học sinh sẽ huy động dẫn chứng để làm sáng tỏ những vấn đề lí luận khi làm bài dạng này Bài kiểm tra. như: đặc điểm văn học, chức năng văn học, cá tính sáng tạo của nghệ sĩ,… Từ đó cũng sẽ cung cấp cho người học Tự sưu tầm trở thành một nhu cầu gần gũi bằng cách tìm kiếm tài liệu trên Internet hoặc các nguồn tri thức khác.
Học sinh tìm hiểu về tác giả Nam Cao được hướng dẫn đọc các văn bản như: Tuyển tập Nam Cao, Nam Cao tác gia, tác phẩm; Chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam; Nhà văn Việt Nam đương đại, chân dung và phong cách; Con đường của nhà văn đến với thế giới nghệ thuật;… Đọc để hiểu những ảnh hưởng của thời cuộc, đất nước, gia đình và con người đối với văn Nam Cao; tạo ý niệm về sự thống nhất và biến đổi của các tác phẩm tiêu biểu cho phong cách của các nhà văn ở các đề tài, thể loại khác nhau trong các giai đoạn nối tiếp nhau như thế nào; ghi nhớ những đánh giá, nhận xét của các nhà nghiên cứu về Nam Cao; Xem bằng chứng về đặc điểm phong cách của các nhà văn tài năng thông qua thế giới nghệ thuật được tạo ra bởi các nhà văn. Những yêu cầu nêu trên hướng dẫn việc đọc để thu thập dẫn chứng, cũng như đánh giá tác giả biên soạn, giai đoạn văn học, phương pháp, v.v. góp ý để học viên chuẩn bị tinh thần khi thảo luận các vấn đề liên quan; hoặc để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, chẳng hạn: nhà văn và quá trình sáng tạo, chức năng văn học, phong cách nghệ thuật, tiếp nhận văn học, quy luật văn học, v.v.
– Hành trình đọc là một quá trình dài, và sưu tập cũng vậy. Để thuận lợi cho quá trình thu thập khoa học và hệ thống, sử dụng dẫn chứng trong bài viết thiết thực, người học nên phân loại theo chủ đề. Dưới đây là một số gợi ý:
+ Bình luận văn học của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học và của chính tác giả văn học: thơ, văn xuôi, đặc điểm và chức năng văn học, nghề nghệ sĩ…
+ Chủ đề: Thiên nhiên, chiến tranh, tôn giáo, tình yêu,..
+ Chủ đề: Tình yêu đất nước, tình yêu đôi lứa, tình yêu gia đình, khát vọng làm trai, tình cảm nhân đạo,…
+ Hình ảnh: hình ảnh người lính, người nông dân, hình ảnh người trí thức phong kiến, hình ảnh nhà nho ẩn sĩ, vầng trăng, dòng sông, con sóng, biển cả…
+ Phong cách sáng tác: cổ điển, lãng mạn, hiện thực,…
+ Động cơ: trong ca dao ( thân mình, cây cầu,…); trong truyện cổ tích (hóa thân, ông Phật, bà Tiên và những phép màu, kết thúc, nhân vật chính trở thành vợ lẽ của hoàng hậu hoặc con vua,…); trong truyện hiện đại (người, vật, v.v.)
+ Biểu tượng: trong văn học dân gian (tre – mai; mận – đào; trầu cau,…); trong văn học trung đại (kí hiệu ước lệ trúc cúc dầu,…); trong văn học hiện đại (sự sáng tạo những biểu tượng mang dấu ấn riêng của người nghệ sĩ (thơ Hàn Mặc Tử, thơ Chế Lan Vie).
+ Những quan niệm: về con người, về cái đẹp, về tôn giáo, về tình yêu, về lí tưởng.
+ Cách miêu tả: thiên nhiên, con người, hiện thực cuộc sống.
+ Cùng loại chi tiết nghệ thuật: trong thơ, trong văn xuôi.
– Ghi chú tích lũy đặc biệt chú ý đến trích dẫn chính xác.
* Rèn luyện kỹ năng xử lý chứng cứ trong quá trình thu thập:
Nguồn dẫn chứng mà học sinh có được thông qua bài đọc là rất lớn, ngoài việc hướng dẫn ghi chép, giáo viên sẽ gợi ý học sinh viết một đoạn văn ngắn từ 3-5 câu để phản biện. một loại đề xuất văn học nhất định.