Phân tích bi kịch tình yêu tan vỡ của Thúy Kiều khi trao duyên cho Thúy Vân
“… Tin tôi đi, tôi sẽ đồng ý,
Ngồi cho nó lạy rồi nói.
Giữa đường đứt gánh,
Nếp tín lấy tơ thừa làm áo cho em.
từ khi tôi gặp bạn
Khi bạn muốn một người ngưỡng mộ vào ban ngày, khi bạn nguyền rủa một chiếc cốc vào ban đêm.
Mọi sóng gió,
Tình yêu là khôn ngoan của cả hai bên.
Ngày xuân của anh còn dài,
Xót thương dòng máu non sông.
Cho dù thịt nát xương tan,
Chín suối tiếng cười còn thơm.
Cuộc đời Kiều là một tấm gương đau khổ. Số phận của Kiều đầy bi kịch kỹ nữ. Và một trong những bi kịch lớn đó chính là bi kịch tình yêu tan vỡ, được thể hiện rõ nét nhất qua tác phẩm “Vận mệnh thay đổi”.
Hai câu thơ đầu: Chữ tín.
+ Đây là lời cậy, tác giả đặt Thúy Kiều vào hoàn cảnh éo le để từ đó bộc lộ tâm trạng, tính cách. Kiều buộc lòng phải trao gửi tình yêu, điều mà nàng đã làm bằng lời nói tế nhị và khó khăn.
+ Cảnh “em” – “ngồi”, “chị” – “chậc”, “anh ơi”, ở đây có sự đảo lộn vị trí của hai chị em trong gia đình, nghĩa là lòng tin vô cùng quan trọng, thiêng liêng, nghiêm túc => Thúy Kiều, người thông minh trọng tình nghĩa, chàng là người thông minh, dịu dàng, kín đáo.
+ Kiều Thúy xin Vạn nhận lời để được liên lạc với Kim Trọng. Kiều đã rất tinh tế khi dùng những từ “tin”, “chịu” và “thưa – dạ” để khiến Vạn im bặt. Yêu cầu vừa lạ vừa hợp lý này giúp người đọc biết được nét tinh tế sâu sắc của Kiều. Kiều ý thức được gánh nặng mà mình sẽ phải gánh chịu và hiểu được hoàn cảnh khó khăn của Va.
6 câu tiếp: Lời thú nhận của lòng em.
– Thúy Kiều nói về nỗi éo le của mình: Kiều nói ngắn gọn về mối tình đẹp nhưng không thành của mình với Kim Trọng. Chàng nhớ lại những biến cố dẫn đến việc Kiều không thể tiếp tục mối tình của mình.
+ Kiều nhắc về tình yêu của chàng với chàng Kim (trong cuộc gặp gỡ ngày đêm mà Kiều và Kim Trọng đã thể hiện lời thề nguyền sâu nặng) và Kiều đã đưa ra những lí lẽ để thuyết phục chàng. Kiều diễn tả tình cảm của Vân dành cho anh em mình Kiều cũng dùng nó để bày tỏ sự hài lòng trước cái chết của Vân nếu Vân chấp nhận. Lời yêu cầu của Kiều vừa chân thành vừa có sức thuyết phục.
Bốn câu cuối: Thuyết phục.
– Kiều năn nỉ em “gom thêm lụa” để trả nghĩa chàng Kim.
– Thúy Kiều thuyết phục tôi bằng lí do: Vì tuổi trẻ. Nhờ máu của các chị em. Kiều biết ơn bạn cho đến chết, biết ơn sự hy sinh của bạn.
– Đây là những lời lẽ, lập luận thông minh, tinh tế làm tăng sức thuyết phục cho lời nói, tạo tính cách lời nói nghiêm túc, chừng mực, tao nhã. Giọng điệu của bài thơ phù hợp, nhịp điệu của bài thơ mang sắc thái
– Tâm trạng của Kiều khi trao kỉ niệm tình yêu: Kiều như sống lại kỉ niệm xưa.
– Kỉ niệm về những tháng ngày hạnh phúc trong sáng trong quá khứ, rồi nỗi đau khi phải chia tay hạnh phúc ấy. Vẫn còn nỗi nhớ nhung, nhất là khi tặng quà lưu niệm cho Vân Kiều: nửa tặng, nửa níu kéo tinh thần Kiều. Lí trí đã quyết trao tình cho chàng, nhưng Kiều vẫn muốn giữ lại một chút cho mình, vẫn muốn chia sẻ trong tình yêu của Kim Trọng.
– Ở đây, Nguyễn Du miêu tả quá trình yêu là quá trình tự nhận thức về bi kịch tình yêu tan vỡ của mình. Kiều tin tưởng Vạn, nhưng thực chất đã hiện nguyên hình, bộc lộ tình cảm và ước muốn sâu kín của mình. Kiều tỉnh táo van xin nàng nhận nhưng rồi Kiều đã để cho trái tim mình nói ra khi trao kỷ vật.
– Miêu tả tinh tế thế giới nội tâm của nhân vật. Ngôn ngữ chọn lọc, sử dụng nhiều biện pháp tu từ.
Năn nỉ tôi nhận lời trao vật kỷ niệm, Kiều nói, cho đi nhưng tôi muốn giữ lại tình cảm của mình, vì tôi luôn khao khát tình yêu và hạnh phúc: Tình yêu tan vỡ, nhưng khao khát một tình yêu chung thủy. dừng lại
Bài viết tham khảo:
Phân tích đoạn văn “Trao duyên”.
Kiệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du có một vị trí đặc biệt trong tác phẩm “Hoán đổi số phận”. Về mặt kết cấu, bài thơ đánh dấu một bước ngoặt lớn trong cuộc đời của nhân vật chính Thúy Kiều: bắt đầu cuộc đời lưu lạc, đau khổ. Về chủ đề, bài thơ thể hiện sâu sắc chủ đề bi kịch của tình yêu tan vỡ. Xét ở góc độ nghệ thuật, đoạn thơ chứng tỏ tài năng tuyệt vời của Nguyễn Du trong việc khắc họa nội tâm nhân vật.
Tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn Trao duyên trải qua ba chặng đường, giống như ba nấc thang tâm lý. Mở đầu là những lời yêu cầu khẩn thiết của Kiều với Vân:
“Tin tôi đi, tôi sẽ lấy nó,
Hãy ngồi xuống và lạy tôi, tôi sẽ nói cho ông biết.”
Hai khổ thơ cho thấy Kiều vừa cầu xin vừa nghiêm trang, như đặt cả niềm tin và hi vọng vào Wanda. Với nhiều từ biểu thị yêu cầu: hỏi, mượn, lo lắng, v.v. Nguyễn Du đã chọn chữ “tín”. Phải chăng chỉ riêng chữ “tín” đã chứa đựng thông điệp xin và tin? Một lần nữa, tại sao anh ta “chấp nhận”, “chấp nhận”, tại sao đầu tiên là “tuân theo” và sau đó “nói”? Nếu Kiều trình bày sự việc trước, chắc chắn Vạn đã nhận lời. “Chấp” tức là có tâm của người mua, có sự tự nguyện của Vạn. Nhưng Vân có biết cái gì là tự nguyện hay không tự nguyện. Vì vậy, phải “chấp nhận” vì Kiều chủ động cưỡng bức Vạn, đẩy Vạn vào thế không thể chấp nhận được. Đến đây, Kiều hiểu ra nỗi niềm của mình và càng thấu hiểu nỗi niềm của em gái. Qua đây cũng có thể thấy Nguyễn Du là một nhà thơ đang “trầm tư trong cuộc đời”.
Thúy Kiều không nói nhiều về thân phận của mình. Không biết chuyện gì đã xảy ra. Nhưng chỉ có Vân mới hiểu nỗi bất hạnh của Kiều. Vì chính Vân là người chứng kiến cả hai biến cố trong cuộc đời Kiều: “khi gặp chàng Kim” và “trong cơn giông tố nào”. Mâu thuẫn lớn trong tâm trạng Thúy Kiều lúc này không phải giữa hiếu và tình. Giải quyết mâu thuẫn giữa hiếu và tình, Kiều đã làm điều đó một cách khó khăn nhưng cương quyết và có phần điềm tĩnh: “Làm con trước hết phải đền ơn sinh thành”. Hơn nữa, nếu đã là con nuôi thì Kiều phải “tin tưởng”, “vui vẻ”, “chuyện trò” với em gái; Hẹn hò là trách nhiệm và cam kết với Vân.
Mâu thuẫn chủ yếu thể hiện trong đoạn văn là “mâu thuẫn giữa tình yêu lứa đôi và hạnh phúc tan vỡ”. Sự dở dang, đứt đoạn này được thể hiện trong câu thơ mang sắc thái thành ngữ: “Gánh nặng tình đứt gánh giữa đường”. Ta bắt gặp hình ảnh ẩn dụ “giữa đường đứt gánh” trong ca dao. Hóa ra những đau khổ của Thúy Kiều không xa lạ với số phận của người phụ nữ xưa. Tuy nhiên, bi kịch tan vỡ tình yêu của Kiều vẫn thấm thía hơn những chuyện tình trước đó trong văn học.
Sau tám câu mở đầu Kiều nói với Vân về nỗi bất hạnh, tình cảnh khó khăn của mình, Kiều tiến tới thuyết phục Vân thay mình trả nghĩa Kim Trọng. Kiều đã nói với Vân bằng những lời lẽ đáng tin cậy được thể hiện bằng những câu thơ mang phong cách thành ngữ: “tình máu mủ”, “nước non trữ tình”, “xương thịt rơi rụng”, “tiếng cười trưởng thành”. Những câu chuyện hấp dẫn. Kiều trói Vạn bằng máu me và xin chàng cho chàng một chút niềm vui, một chút ân huệ, một chút hương thơm vì sự hy sinh cao cả của chàng:
“Dù thịt nát xương tan,
Cười đến chín suối vẫn thơm”.
Thuyết phục và thuyết phục, nài nỉ mà vẫn van xin, Kiều đã đạt được mục đích: chàng xin Vân trả nghĩa thay cho Kim Trọng.
Nhưng khi đã đạt được mục đích thì bi kịch tình yêu của Kiều lên đến đỉnh điểm. Kiều biết Thúy Vân lấy Kim Trọng là để trả nghĩa chứ không phải vì “lời nước non” mà vì “xót xa máu mủ” nên Kiều chỉ có thể trao cho Vân cái duyên của mình, nhưng tình yêu, anh là không dễ. cho Với tình yêu, Kiều là người “phụ bạc”. Anh ta cố gắng quay lại với tình yêu theo hai cách: bằng cách để lại một ký ức, một linh hồn bất tử.
Kiều tặng Vân quà lưu niệm. Anh ấy hy vọng rằng với những kỷ niệm của mình, anh ấy sẽ tham gia vào tình yêu đó. Những kỉ niệm thiêng liêng, đẹp đẽ: “chấm bằng phên mây”, “phím hương nguyền rủa”. Kỉ niệm đẹp vì nó liên quan đến những tháng ngày đẹp nhất của đời Kiều. Kỷ vật thiêng liêng vì nó là của riêng – chỉ riêng Kiều và Kim Trọng. Kiều không muốn trao cho người thứ ba, dù đó là anh trai mình. Tóm lại, “tài sản chung” thật đáng thương: “Cái này định giữ, cái này là của chung”. “Ngày xưa” đau đớn biết bao trong một chữ: “Chìa khóa với nén hương nguyền năm xưa”.
Một thực tại tươi sáng đẹp đẽ vừa qua đi. Thời gian đối tượng bị gián đoạn, nhường chỗ cho thời gian tâm trạng. Nỗi nhớ còn đó, nhưng không có Kiều cho tình yêu. “Một chút niềm tin” và ý nghĩa của nó khi mọi người đã mất. Trở về với kỉ niệm chẳng giúp được gì cho Kiều.
Kiều tìm đến con đường thứ hai, con đường trở về với tình yêu với tâm hồn bất tử: “Hễ gặp gió thì về”. Kiều hi vọng với lần trở về này trả được ơn Kim Trọng sẽ nhận được sự cảm thông của người tình “Giọt nước làm tràn ly kẻ lầm lỡ”. Nhưng như ai đó đã nói trong cổ tích về tình yêu, nếu nước mắt Mỵ Nương rơi vào chén trà và giải oan hồn Trương Chi thì trong “Giai đoạn Tân Thanh” nước mắt của chàng Kim không thể tan chảy trong mối tình đơn phương của Kiều. Vì sự trở về với linh hồn bất tử là sự trở về không gặp gỡ.
Ở cuối đoạn thơ, yếu tố bi tráng không những không giảm đi mà còn được nâng lên một mức độ cao hơn. Rồi sự trở về của linh hồn, sự trở về của siêu hình cũng bất lực trước tình cảm chân thật của người con gái họ Vương. Kiều ý thức rất rõ về cái hiện sinh, cái “bây giờ”: “Tấm gương vỡ lại lành”, “Dương duyên ngắn ngủi”, “Phận bạc như vôi”, “Nước hoa chảy lã chã”.
Kiều ý thức được cái đang tồn tại, cái “bây giờ” và Kiều yêu nó hơn. Ai sẽ trách anh sau khi anh yêu người, anh yêu mình vì người. Anh ấy có một chút vì anh ấy không ích kỷ, nhưng anh ấy vẫn rất vị tha. “Vì Dân” hoàn toàn không có bóng dáng của nỗi đau cá nhân. Hết chuyện “vì người” rồi mới nhìn lại được lòng mình, tình cảnh của mình. Nỗi đau của anh sâu biết bao” (Lê Trí Viễn).
Tâm trạng bi kịch của Kiều càng sâu sắc khi chàng vẫn không kìm nén được niềm khao khát tình yêu tha thiết, vĩnh hằng trước khi bị số phận giày xéo: “Cho biết sao chứa được bao nhiêu tình”, “Trăm ngàn lạy yêu”. sự hiện diện của tình yêu khiến Kiều quên mất sự hiện diện của người em gái. Ở giữa đoạn đối thoại với Vân, Kiều quay lại độc thoại nội tâm, rồi như hướng tất cả vào Kim Trọng:
“Ôi Kim Lăng! Này Kim Lăng!
Đi nào, tôi sẽ giúp bạn từ đây!”
Trong một đoạn thơ, tên Kim Trọng được gọi hai lần, kèm theo các từ “ơi”, “ơi” thể hiện sự đau đớn, tuyệt vọng. Câu thơ trên ngắt nhịp 3/3 hát như một tiếng nức nở, thì câu thơ dưới ngắt nhịp như một lời than thở.
Lời thương kết lại bằng một tiếng than thở, một tiếng kêu đau đớn, tuyệt vọng. Nhưng dù tình yêu có tan vỡ thì khát vọng tình yêu vẫn được khẳng định. Đây là vẻ đẹp cao quý của tâm hồn Kiều, là giá trị nhân văn trường tồn của “Truyện Kiều”. Đoạn thơ bi tráng, đau thương nhưng không hề u buồn, tăm tối mà ngược lại vẫn ánh lên niềm tin yêu, ánh sáng niềm tin vào con người.
Đoạn thơ cho ta thấy “sự đồng cảm lạ lùng” của nhà thơ dân gian lớn (Hoài Thanh) đối với những nỗi khổ đau, khát khao của tình người. Qua “Người ban ơn” ta còn thấy được lối viết miêu tả nội tâm độc đáo của nhà thơ lớn.