Phân tích bút pháp miêu tả thiên nhiên điêu luyện của Nguyễn Du trong Truyện Kiều qua các đoạn trích Ngữ Văn 9
I. Miêu tả trực tiếp thiên nhiên.
Miêu tả là một phong cách quen thuộc với bất kỳ nhà văn, nhà thơ nào dù ở hải ngoại hay trong nước. Nhờ lối viết này mà mỗi bài văn, bài thơ trở nên cụ thể, sinh động, gần gũi và hấp dẫn hơn. Văn miêu tả có nhiều kiểu: Có thể tả cảnh, có thể tả người… có thể tả trực tiếp, có thể tả gián tiếp (lấy cảnh để tả tình) và không phải tác giả nào cũng thành công. Nguyễn Du tự cho mình là bậc thầy của nền văn học dân tộc.
- Phân tích phong cách nghệ thuật của Nguyễn Du qua tác phẩm Cảnh ngày xuân.
- Cảm nhận vẻ đẹp của nghệ thuật miêu tả thiên nhiên mùa xuân qua 4 khổ thơ đầu và 6 khổ cuối trong bài thơ Cảnh ngày xuân (Trích Truyện Kiều của Nguyễn Du).
Trong chương trình Ngữ Văn lớp 9 THCS, sức sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Du được thể hiện cụ thể qua từng đoạn Truyện Kiều.
Mở đầu bài “Cảnh ngày xuân”, Nguyễn Du đã dùng bút pháp miêu tả thiên nhiên một cách trực tiếp.
“Con én cho tôi ngày xuân,
Quang Thiều đã sáu mươi chín năm trôi qua.
Cỏ xanh tận chân trời,
Có vài bông hoa trên cành lê trắng.”
(Cảnh ngày xuân – Trích Truyện Kiều của Nguyễn Du)
Bốn dòng thơ đầu của Nguyễn Du đã mở ra một không gian nghệ thuật đầy màu sắc, thơm tho, hữu tình và thơ mộng. Đàn én bay lượn như “đu đưa” giữa đất trời bao la, vô tận. Những cánh én ngày hè thân thiết làm sao? Hai từ “trói” thật gợi hình, gợi cảm. Nhà thơ miêu tả cánh én như con thoi bay tới, chao lui, như thể thời gian trôi nhanh, mùa xuân qua nhanh, ngày vui qua rất vội.
Sau cánh én ghi ánh xuân “thầm lặng”, “ánh sáng” “nín mươi 60”. Thật là hay và thú vị cách nhà thơ tính toán thời gian, miêu tả vẻ đẹp mùa xuân của quá khứ. Đây là “mùa xuân xưa” (Trái), cảnh mưa bụi, tiếng chim trong Đường Thi và “suối hồng” (Xuân Diệu), “Mùa xuân” (Hàn Mặc Tử)… với Nguyễn Du, Xuân bước vào tháng ba “hơn chín sáu mươi”. Hai chữ “Thiều Quang” gợi lên màu hồng của ánh sáng mùa xuân, hơi ấm của khí xuân, của đất trời bao la.
Nếu hai câu trên là thời gian, là chốn xuân khí, thì hai câu sau là cảnh đẹp của mùa xuân.
“Cỏ non xanh tận chân trời,
Một cây lê trắng có vài bông hoa trên cành”
(Cảnh ngày xuân – Trích Truyện Kiều của Nguyễn Du)
Thơ cổ Trung Quốc được Tố Như vận dụng sáng tạo: “Phương pháp Liên Thiên Bích – quyển Lệ chi viết hoa”: hai chữ “Điểm trắng” là nét chữ, gợi lối chấm phá của thơ cổ. vẻ đẹp trinh nguyên của thiên nhiên, cỏ cây hoa lá; Phối màu hoàn hảo: Cỏ xanh non trải dài đến tận chân trời là màu nền cho bức tranh mùa xuân. Trên nền xanh non ấy là vài bông hoa lê trắng muốt. Có một sự hài hòa tuyệt đẹp của màu sắc. Tất cả gợi lên vẻ đẹp đặc sắc của mùa xuân: tươi mới, tinh khiết và tràn đầy sức sống.
Như vậy, bằng vài nét bút, bức “Cảnh ngày xuân” của thầy đã biến thành một bức tranh xuân lộng lẫy, một thi phẩm tuyệt tác mà Nguyễn Du đã tặng cho đời, tô điểm cho cuộc đời của mỗi chúng ta. Nhà thơ Chế Lan Viên đã học từ Như viết bài thơ xuân rất hay:
“Tháng giêng, tháng hai cỏ xanh,
Hai tháng giêng bay trên trời với đôi cánh én…”
(“Nghĩ Xuân” – Chế Lan Viên)
Đây là cảnh xuân mà Nguyễn Du cảm nhận vào buổi sáng, còn bức tranh xuân vào buổi chiều thì sao?
II. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình:
Các nhà thơ xưa thường lấy cảnh để tả tình, thấy cảnh mà thấy tình. Cũng trong hoạt cảnh “Cảnh ngày xuân”:
“Cái bóng của cái ác nghiêng về phía tây,
Hai chị em trở về nhà tay trắng.
Bước từng bước dọc theo ngọn đồi nhỏ,
Cảnh quan với bề mặt quầy bar.
Cho dù nước chảy xung quanh như thế nào,
Lần cuối cùng, một cây cầu nhỏ bắc qua đường cao tốc.”
(Cảnh ngày xuân – Trích Truyện Kiều của Nguyễn Du)
Bức tranh ở đây không còn tươi tắn, trong trẻo mà như chơi vơi theo tâm trạng. Nguyễn Du rất giỏi miêu tả thiên nhiên, vẫn chiếc cầu nhỏ, dòng suối nhỏ, vẫn cái thanh thanh, tao nhã của mùa xuân nhưng ông đã miêu tả chúng ở một góc nhìn khác, một thời điểm khác, tức là ở giữa cảnh vật. và tình yêu hòa hợp với nhau. (Lòng Kiều xao xuyến như tiếng “thì thầm” của nước báo trước).
Nguyễn Du dùng một số từ láy để diễn tả sắc thái của cảnh và tâm trạng nhân vật: tà tà, thơ thẩn, êm đềm, nao nao, nhỏ bé ta thấy được cảm xúc rạo rực, vui mừng của chị em Thúy. Như Kiều trở về. chuyến du xuân.
Một bút pháp tả cảnh ngụ tình mà ta bắt gặp không chỉ trong “cảnh ngày xuân” mà còn xuất hiện trong đoạn “Trên lầu của Kiều Ngưng Bích”.
“Trước lầu Ngưng Bích buổi hè,
Một dáng vẻ trẻ trung còn xa tháng sau.
Bốn phương xa rộng,
Có cồn cát vàng và bụi hoa hồng.”
(Trên Lầu Kiều Ngưng Bích – Trích Truyện Kiều Nguyễn Du)
Lầu Ngưng Bích sơn trang có những đụn cát khổng lồ nhấp nhô, bụi đỏ tung bay, xa xa có thể nhìn thấy dãy núi trùng điệp và ánh trăng. Khung cảnh thiên nhiên rộng lớn, vắng lặng, hiu quạnh, choáng ngợp ở lầu Ngưng Bích chính là để nhấn mạnh tâm trạng u buồn, cô đơn của Kiều.
- Ta phân tích thân phận, tâm trạng Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích
- Phân tích bút pháp tả cảnh ngụ tình “trên lầu của Kiều Ngưng Bích” trong 8 câu cuối
Có thể nói bức tranh trước lầu Bãi Ngang không còn đơn thuần là bức tranh thiên nhiên đơn thuần mà là bức tranh “tâm cảnh” – Trong cảnh có tình, trong cảnh có tình. Nhà thơ xưa từng nói:
“Cảnh nào không sầu,
Cảnh buồn mà người vui?”.
Kiều mang tâm trạng buồn bã, cô đơn nên nhìn đâu cũng thấy buồn. Tám câu cuối của đoạn “Ở lầu Kiều Ngưng Bích” tả cảnh thiên nhiên quanh lầu Nguyễn Du Ngưng Bích, tả tâm trạng của Thúy Kiều. Đó là một bức tranh phong phú và sinh động về ngoại cảnh và tâm trạng. Nổi bật trong đoạn thơ là tâm trạng buồn vui lẫn lộn của Thúy Kiều:
“Buổi chiều nhìn cửa nát,
Có thuyền ở xa không?”
(nằm trên lầu Kiều Ngưng Bích)
Nửa ngày, cánh sầu trôi xa trên biển đánh thức trong anh một nỗi buồn nhớ quê hương xa xứ hay một niềm hi vọng vô vọng về một điều gì bất trắc sắp đến.
“Thấy nước đổ mới buồn,
Hoa trôi về đâu?”
(nằm trên lầu Kiều Ngưng Bích)
Cánh hoa lênh đênh giữa biển rộng liệu có tiếc thương cho thân phận “hoa trôi”?
“Thật buồn khi thấy cỏ khóc,
Mây xanh chân đất xanh”.
(nằm trên lầu Kiều Ngưng Bích)
Có phải là nỗi buồn tuyệt vọng của anh khi nhìn thấy những cánh đồng cỏ khô héo, những chân mây, những nơi xanh tươi?
“Thật buồn khi thấy khuôn mặt của bạn bị gió thổi bay,
tiếng sóng vỗ quanh ghế”.
(nằm trên lầu Kiều Ngưng Bích)
Gió lướt qua mặt anh và khiến sóng vỗ ầm ầm… “Lóc rách quanh chỗ ngồi” là tâm trạng của cảnh quay, anh cảm thấy sóng vỗ dưới chân mình. Trạng thái sợ hãi này là sợ hãi những điều xấu xa đang che giấu họ.
Như vậy, Nguyễn Du đã khắc họa một bức tranh sinh động về ngoại cảnh và tâm trạng bằng cách thể hiện độc đáo và tài hoa những cảnh tả tình, sự đan xen buồn đau, chua xót của tâm trạng Kiều. …