Một số hình thức kết cấu trong tác phẩm văn học
Chủ thể-tư tưởng luôn đóng vai trò định hướng, chi phối cấu trúc và quan hệ chủ thể-tư tưởng. Nhà văn xác định hình thức kết cấu của tác phẩm thông qua nhận thức năng động mang tính chủ quan của mình. Ngược lại, cấu trúc cũng có tính độc lập tương đối của nó, nếu cấu trúc thay đổi thì chủ thể – tư duy cũng bị ảnh hưởng ở mức độ nào đó. Nhiệm vụ quan trọng nhất của kết cấu là tổ chức tác phẩm sao cho chủ đề là trung tâm, tính tư tưởng thống nhất, tư tưởng chủ đề thấm sâu vào từng phần của tác phẩm, kể cả những chi tiết nhỏ nhất. Do đó, rất khó để xác định các dạng cấu trúc của thành phần thực tế. Nhưng ở đây có thể nghiên cứu một số hình thức kết cấu đã xuất hiện trong lịch sử văn học và tạo nên nhiều tác phẩm có giá trị.
1. Kết cấu theo trình tự thời gian.
Cảm xúc thuộc kiểu kết cấu trình tự thời gian vận hành theo tiến trình phát triển của hiện thực thời gian. Chẳng hạn, trong bài “Theo dấu chân Bác” của Tố Hữu, ông tổ chức diễn biến cảm xúc theo các giai đoạn hoạt động cách mạng của Bác, từ những ngày ở Làng Sen đến những ngày cuối đời.
Chúng ta thấy rõ cấu trúc biên niên phổ biến nhất trong văn học Việt Nam trước 1930. Theo cấu trúc này, truyện được trình bày theo trình tự phát triển trước sau của thời gian. Các sự kiện lần lượt xảy ra liên tục, tuần tự và không bị gián đoạn. Hầu hết các tác phẩm nhiều tập đều sử dụng cấu trúc này. Ở đây, tác phẩm được chia thành nhiều chương, di chuyển theo sự phân bổ các hành động và sự kiện của cốt truyện. Mỗi chương, mỗi màn thường gắn với một giai đoạn nhất định của cốt truyện và có khi khá trọn vẹn, kiểu kết cấu này giúp người đọc dễ theo dõi truyện nhưng đôi khi lại đơn điệu.
Vì đặc điểm kết cấu hồi chủ yếu là hình thức kết cấu được xác định về mặt thời gian. Câu chuyện đi theo diễn tiến tự nhiên của thời gian. Thời gian không đứt quãng, các sự kiện diễn ra tuần tự, không đứt quãng từ đầu đến cuối. Về hình thức, truyện thường chia thành nhiều chương, nhiều đoạn, theo sự phân bố các hành động, sự việc của cốt truyện. Mỗi chương, mỗi hành động được kết nối với một số giai đoạn của cốt truyện và về cơ bản ít nhiều đã hoàn thành. Trong nhiều truyện chương hồi tìm thấy trong văn học cổ của nhiều nước, nhìn chung ta thấy các tác giả đều chú trọng đến cốt truyện và hành động của nhân vật chính, cốt truyện tương đối dày đặc và có nhiều tầng ý nghĩa. Cốt truyện được xây dựng tương đối chặt chẽ, khá dài và bao gồm khá nhiều sự kiện. Tính cách của một nhân vật được thể hiện qua nhiều hành động và thử thách qua nhiều sự kiện. Sử thi “Iliad và Odyssey” của Homer là một sử thi cụ thể. Tiểu thuyết và truyện của Trung Quốc như Việt Nam như Thủy Hử, Tam Quốc Chí, Tây Du Ký,… và Thạch Sanh, Truyện Kiều, Lục Vân Tiên…
Cấu trúc chuyển động hiếm khi được sử dụng trong sáng tác ngày nay. Nhà văn muốn phản ánh hiện thực theo nhiều cách khác nhau, có khi ông kết thúc câu chuyện ngay giữa cuộc đời của người anh hùng. Đôi khi toàn bộ câu chuyện được sử dụng trong một thời gian rất ngắn so với toàn bộ cuộc đời của nhân vật.
2. Kết cấu theo hai tuyến nhân vật đối lập nhau.
Trong một tác phẩm có hai tuyến nhân vật đối lập, hai nhân vật thường đại diện cho hai lực lượng đối lập của xã hội: một bên là thiện lương, một bên là xấu xa, bất công. Trong trường hợp thứ hai, sự khác biệt giữa hai đường phát triển song song chỉ có tác dụng tương phản.
Hình thức kết cấu theo hai tuyến nhân vật đối lập cũng là một kết cấu khá phổ biến trong văn học, đặc biệt là văn học cổ. Chủ đề và tư tưởng của tác phẩm hiện lên qua sự so sánh, tương phản giữa hai tuyến nhân vật phát triển song song hoặc hỗ trợ nhau hoặc mâu thuẫn với nhau. Trong văn học cổ, hai tuyến này thường tượng trưng cho hai thế lực đối lập nhau trong xã hội. Một bên là sức mạnh của nhân dân, của chính nghĩa, một bên là sức mạnh của sự bất công tàn bạo của giai cấp thống trị. Diễn biến của cốt truyện là quá trình đấu tranh không thể hòa giải giữa hai thế lực này, và thường vụ án kết thúc với phần thắng thuộc về phe chính nghĩa. Chẳng hạn, trong truyện Nhị Độ Mai, các nhân vật được nhóm thành hai tuyến, một là tuyến chính nghĩa do Mai Bá Cao và Trần Đông Sơ đứng đầu, hai là tuyến bất chính do Lữ Kỷ và Hoàng Trung đứng đầu. . Những người công chính đã chiến thắng.
Hình thức kết cấu xuôi theo hai tuyến nhân vật đối lập có tác dụng soi sáng tư tưởng tác phẩm khi sự hòa quyện của hai tuyến bắt nguồn từ một cuộc đấu tranh giai cấp bạo lực ngoài đời thực, khi mỗi đối tượng riêng lẻ đều có mối liên hệ sâu sắc với những vấn đề mà nhân vật đặt ra. xã hội. Đôi khi tập hợp các nhân vật trong hai dòng được sắp xếp như một sơ đồ để làm nổi bật những ý tưởng thiện và ác và cuộc đấu tranh giữa những ý tưởng này. Chẳng hạn, Ngô Tất Tố và Nam Cao là hai nhà văn hiện thực phê phán Việt Nam từ 1930 đến 1945, cả hai đều viết về cảnh ngộ của những người nông dân chết đói bị giai cấp thống trị bóc lột nhưng dễ nhận biết về mặt tư tưởng. Trong tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố, gia đình chị Dậu bị rơi vào cảnh “chết đói” vì bị bọn sưu thuế xô đẩy, chị tiêu biểu cho người nông dân hiền lành bị giai cấp thống trị bóc lột tàn bạo không lối thoát. Đối với truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao, nhân vật Chí Phèo là một nông dân chất phác, chịu cảnh “chết đói” bởi địa chủ (Bá Kiến) và nhà tù thực dân đã đẩy họ đến giới hạn. Chị Dậu và Chí Phèo bị hành hạ cả về thể xác lẫn tinh thần.
Cấu trúc này được sử dụng rộng rãi trong văn học cổ đại. Nhà văn lý tưởng, chính trị, đạo đức, hành động, v.v. tạo nên hai tuyến chính diện và phản diện đối lập nhau, kết cấu này có tác dụng làm sáng tỏ chủ đề – tư tưởng bằng biện pháp so sánh, đối chiếu giữa hai tuyến nhân vật đối lập. Tuy nhiên, sự phân biệt khá rõ ràng giữa thiện và ác thường dẫn đến một sự lý tưởng hóa thực tế. Trong cuộc sống thực, các lực lượng xã hội tương tác và thay đổi lẫn nhau, thay vì tồn tại một cách ổn định và tĩnh tại. Hình thức kết cấu của hai tuyến nhân vật đôi khi được thể hiện không phải là sự xung đột mà là hai đường thẳng song song làm cơ sở tương phản và hỗ trợ cho nhau. Ở đây, mỗi dòng thể hiện hoàn cảnh sống, tính cách, đạo đức, v.v. Nó tập hợp những loại hình gần nhau Có thể coi Anna Karenina của L. Tonkhtoin được xây dựng theo hình thức kết cấu này.
3. Kết cấu đa tuyến.
Hình thức kết cấu này thường được sử dụng trong các tiểu thuyết lớn. Nhà văn tóm tắt toàn bộ bức tranh xã hội về một bức tranh xã hội rộng lớn, miêu tả nhiều mối quan hệ xã hội phức tạp, thể hiện nhiều kiểu người, miêu tả đời sống, chính trị, đạo đức, v.v. khai thác nhiều khía cạnh tình cảm. Trong Chiến tranh và hòa bình, L. Tonksy thiết lập hai tuyến chính, trong mỗi tuyến chính lại có nhiều tuyến phụ tập hợp các nhân vật thuộc từng thế hệ, từng gia đình. Trong tác phẩm này, số lượng nhân vật của tác phẩm khá lớn, từ vài chục đến vài trăm, họ hoạt động ở những nơi khác nhau. Một nhà văn phải biết cách sắp xếp các nhân vật trong các dòng khác nhau. Nhà văn phải biết tổ chức các nhân vật trong các cốt truyện khác nhau, xác lập mối quan hệ gia đình, nghề nghiệp, giai cấp giữa các nhân vật, phân bố nhân vật trong các môi trường lao động hợp lý.
Cốt truyện đôi khi được tổ chức thành hai hoặc nhiều sự kiện phát triển song song. Những hệ thống sự kiện như vậy gặp nhau một cách tình cờ hoặc tất yếu. Loại cốt truyện này thường gặp trong các tác phẩm có quy mô lớn.
Kiểu kết cấu đa tuyến này thường có trong “Con đường sầu” của Tonstoy, “Sông Đông mềm mại” của M. Solokhov, “Bờ bờ vỡ” của Nguyễn Đình Thi, v.v. được tìm thấy trong những tác phẩm vĩ đại mang âm hưởng sử thi, chẳng hạn như tiểu thuyết của ông. nhiều tuyến sự kiện, nhiều tuyến nhân vật, nhiều môi trường và địa điểm hoạt động nhân vật khác nhau. Hình thức kết cấu này thường được sử dụng trong văn học hiện đại, đặc biệt là trong các tiểu thuyết lớn. Tiểu thuyết hiện đại khác ở nhiều điểm so với tiểu thuyết thế kỷ 19 dựa trên lịch sử của một người hoặc một gia đình. Trong tiểu thuyết hiện đại, có nhiều nhân vật hơn, số phận của họ đan xen vào nhau, nhà văn thường đưa người đọc từ một thành phố khác, đôi khi đến một quốc gia khác, kết cấu khiến chúng ta phải suy nghĩ. màn hình. Có thể kể đến Sông Đông “Lặng lẽ trong đêm” của Solokhov, “Vỡ bờ” của Nguyễn Đình Thi, “Cửa biển” của Nguyên Hồng, v.v. cấu trúc này được sử dụng trong tiểu thuyết của ông.
4. Cấu trúc tâm lý.
Cấu trúc tâm lý là sự mô tả các hiện tượng hết sức vi tế và phức tạp của loại hình tâm lý tâm lý. Đây là hình thức kết cấu phù hợp với quy luật phát triển tâm lí của nhân vật trong tác phẩm. Kiểu kết cấu này xuất hiện cùng với sự xuất hiện của các trào lưu văn học khẳng định vai trò của nhân cách trong xã hội. Cấu trúc này thường dựa trên sự bi quan, bất lực, bẽ bàng, hận thù,… những trạng thái tâm lý mang tính biểu tượng trong cuộc sống hàng ngày, một trạng thái tâm lý có ý nghĩa để sắp xếp nhiều điều nhỏ nhặt. Kết cấu này góp phần thể hiện cuộc sống chật hẹp, tù túng và bế tắc của tầng lớp tiểu tư sản nghèo khổ trong xã hội cũ. Kết cấu tâm lý thường dựa vào sự vận động bên trong nhân vật, sự phản ánh tâm lý của nhân vật trong mối quan hệ với các nhân vật khác để tổ chức tác phẩm.
Nam Cao, kết cấu cốt truyện tâm lý như “Trăng sáng”, “Đời bây giờ”, “Mua nhà”, “Sống vắng” theo phong cách dựng phim của Phạm Thị Minh Thư. Mặc dù Nam Cao sử dụng cấu trúc tâm lý cốt truyện ngắn và ít hấp dẫn xuyên suốt tác phẩm nhưng những suy nghĩ của nhân vật đã đạt đến độ sâu tâm lý vừa đủ. Tâm trạng và hệ thống tư tưởng của các nhân vật, đặc biệt là Th, bị chi phối bởi hoàn cảnh bất biến. Cách kết cấu đó rất phù hợp để từ từ thể hiện cuộc sống đầy biến động của những người trí thức tiểu tư sản nghèo, tài năng và nhân cách ngày càng sa sút, không tìm được lối thoát trong cuộc sống của xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Hoặc phi truyện, tức là truyện không có tình tiết, sự kiện lớn, như nhiều truyện ngắn của Pautovsky, Shekhov, Thạch Lam, hay cả Linh Sơn của Cao Hành Kiện là một ví dụ. Đến cuối thế kỷ 20, người ta nói đến loại cốt truyện thối nát, rời rạc, tức là được cấu thành từ nhiều mảnh đời tương đối nhỏ, theo logic khó nhận ra trong Ghen tuông của Robb Grillet.
Ngoài những cách kết cấu trên, có một số cách dựng truyện có thể đánh dấu là sự lặp lại các yếu tố giống nhau: ba lần Chí Phèo đến nhà Bá Kiến, bốn lần Thúy Kiều đánh đàn, ba lần Thúy Kiều gặp Đạm Tiên. Hay vai trò của đoạn kết trong tác phẩm. truyện ngắn của mr. Henry thường có một kết thúc bất ngờ, đảo ngược logic của các sự kiện trước đó, chỉ đơn giản là có những câu chuyện được xây dựng xung quanh một sự kiện chính, thường được gọi là sự kiện hạt nhân hay một tình huống truyện mà chúng ta thường gặp trong các truyện ngắn. . Số phận con người của M. Sholokhov, hay đứa trẻ sinh ra trên con đường lang bạt vô tận của những người dân thường, là những tình huống đặc biệt như người lính cô đơn sau chiến tranh gặp lại đứa trẻ côi cút, cô đơn, một người được sinh ra từ con người nghèo khổ M. Gorky. .
Ngoài ra còn có cấu trúc một dòng thường được sử dụng trong các tác phẩm có tính chất hồi ký và tự truyện. Những tác phẩm này được gọi là đơn tuyến vì thường chỉ có một nhân vật chính đóng vai trò trung tâm của cốt truyện. Hà Minh Đức cho rằng: “Nhân vật chính có thể là chính tác giả tự thuật lại cuộc đời mình hoặc chứng kiến những biến cố, biến cố cuộc đời (Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng). Cũng có khi nhân vật đóng giả một nhân vật để kể lại câu chuyện (trong Thuyền trưởng và thuyền trưởng của Kaveri, nhân vật chính là Xanaia tự thuật lại câu chuyện của mình).
Ngoài ra, còn có một loại cốt truyện gọi là cốt truyện trong truyện hay còn gọi là cốt truyện kép. Truyện ngắn “Lão hành hương” của Nam Cao là một ví dụ, là câu chuyện kể về cuộc đời đau khổ, mục nát của lão hành hương và nhân vật ông giáo với quá trình nhận thức ban đầu còn khó hiểu, thờ ơ, nhưng dần dần hiểu, thông cảm và cảm phục lão Hạc. . Trong loại cốt truyện này, có thể đi theo cốt truyện chính cũng như các lớp cốt truyện phụ không dễ phát hiện. Đây chính là điều tạo nên các tầng ý nghĩa của tác phẩm. Hoặc có một thủ thuật để thay đổi trình tự thời gian của câu chuyện.