Ngôn từ trong tác phẩm văn học
Thuật ngữ nghệ thuật văn học rất gần nghĩa với thuật ngữ ngôn ngữ ngôn ngữnghệ thuật, ngôn ngữ văn học, lời nói. Đây là những thuật ngữ tương tự nhưng không hoàn toàn giống nhau. ngôn từ nghệ thuật là hình thức vật chất duy nhất cho sự tồn tại của nội dung tác phẩm. Toàn bộ thế giới nghệ thuật được định hình bởi ứng dụng của lớp từ. Từ phần tử trực tiếp, đầu tiên, duy nhất Có như vậy, người đọc mới có cơ sở để nghiên cứu, khám phá thế giới hình tượng, tầng ý nghĩa nội dung của văn bản văn học.
Văn bản trong tác phẩm văn học là một sự kiện nghệ thuật. Bài trữ tình là một biểu hiện sinh động của một phong cách viết. Ý tôi là “một hình thức biểu đạt sáng tác nghệ thuật tạo thành cơ sở ngôn ngữ của một văn bản nghệ thuật, hình thức ngôn từ nghệ thuật của một tác phẩm văn học.(Từ điển thuật ngữ văn học).
Tất cả các tác phẩm văn học được viết hoặc nói bằng lời: thơ, văn xuôi, lời tác giả, lời nhân vật,… gọi chung là văn bản. Nếu ngôn ngữ viết là chất liệu của sự sáng tạo văn học với tất cả những phẩm chất thẩm mỹ của nó, thì văn xuôi là hình thức ngôn từ nghệ thuật của tác phẩm văn học. Lời nói thực chất là một hình thức của ngôn ngữ, nhưng nó được tổ chức theo các quy luật nghệ thuật về nội dung, phương thức, phong cách và thể loại. Lời nói trong tác phẩm nghệ thuật không còn là sự kiện ngôn ngữ có chức năng giao tiếp thông thường, mà được đưa vào hệ thống giao tiếp với chức năng khác. Vì vậy, vấn đề ngôn từ trong tác phẩm văn học và vấn đề ngôn từ trong tác phẩm nghệ thuật không giống nhau.
Lời nói cũng là một dạng của lời nói, nhưng lời nói trong tác phẩm khác với lời nói hàng ngày. Bài phát biểu hàng ngày giải quyết các nhiệm vụ ngay lập tức, một lần; có liên quan chặt chẽ đến tình huống nói mà người nghe cần phải nhận thức đầy đủ về tình huống để hiểu nó. Khi tách khỏi hoàn cảnh này, ngôn từ trở nên vô nghĩa và vô giá trị, ngôn từ trong tác phẩm văn học không chỉ có tác dụng chuyển tải một ý nghĩa cụ thể mà còn có mong muốn trở thành “tiếng nói của nhiều người”. Vì chức năng chính của nó là đưa ra một thông điệp đầy đủ cảm xúc, tư tưởng nghệ thuật, có sức thuyết phục người đọc.
Hình thức thành ngữ là cơ sở ngôn ngữ của văn học nghệ thuật, được tổ chức một cách nghệ thuật, là hình thức ngôn từ nghệ thuật của tác phẩm văn học. Thơ, lời kể, lời nhân vật, đối thoại trong kịch và hình thức của chúng là những thành phần của văn bản nghệ thuật.
Ngôn ngữ của tác phẩm văn học là một hiện tượng nghệ thuật. Tác phẩm nào cũng là viết hay nói. Xét về thể loại văn học, lời thơ, lời nói, xét về chức năng và các thành phần cấu tạo của lời nghệ thuật, lời tác giả, lời nhân vật, lời trực tiếp, lời gián tiếp,… nói chung đều là văn bản. Thơ là hình thức nghệ thuật của ngôn ngữ trong tác phẩm văn học.
Văn bản thực chất là một dạng ngôn ngữ tự nhiên được nhà văn sáng tác theo các quy tắc nghệ thuật về nội dung, phương thức, phong cách và thể loại, được đưa vào một hệ thống giao tiếp khác và thực hiện các chức năng khác nhau, không phải là giao tiếp thông thường như lời nói thông thường. Nhà văn hoàn thiện văn bản bằng cách xây dựng một câu phù hợp với ý định dự định. Chẳng hạn, người đọc chỉ cần chú ý đến văn bản Truyện Kiều là hiểu được thông điệp Nguyễn Du gửi gắm, không cần biết tác phẩm được viết trước hay sau khi đi sứ, thế nào, vị trí của tác phẩm ở đâu. tác giả.
Như vậy, văn bản không chỉ là lời nói mà là hình thức của tác phẩm văn học với những quy tắc tổ chức riêng. Muốn tham gia giao tiếp văn học cần nắm được đặc điểm của ngôn từ nghệ thuật.