Trong cuốn sách Đến với bài thơ hayLệ Chi Viên nói: “Đi vào một bài thơ hay, dù là âm điệu mạnh mẽ hay mượt mà, là bước vào thế giới của cái đẹp”
Bạn có suy nghĩ gì về những nhận xét trên? Hãy mở “thế giới cái đẹp” trong “Đọc Tiểu Thần Ký” của Nguyễn Du.
* Gợi ý bài tập về nhà:
*Nhận xét bình luận:
– Thơ hay: được hiểu chung là một chỉnh thể thẩm mỹ, có khả năng khơi gợi những rung động thẩm mỹ ở người đọc, góp phần hoàn thiện con người, nâng tầm con người…
– Nhạc điệu liên tục hay liên tục: nội dung thơ nhiều màu sắc và vô cùng phong phú, “liên tục”: thơ hào hiệp, tỏ tình, trào phúng hay “liên tục”: thơ trữ tình, thơ lãng mạn.
– Thế giới của cái đẹp: “cái đẹp” là một phạm trù thẩm mỹ được thể hiện ở nhiều phương diện: vẻ đẹp tâm hồn, trái tim, tài năng của người nghệ sĩ, cái đẹp nảy sinh từ nội dung và hình thức của người nghệ sĩ. tính thẩm mỹ. rung động và củng cố tinh thần con người.
⇒ Cả hai cách hiểu: Nói về giá trị thẩm mỹ của bài thơ.
* Bàn luận
Phản hồi đúng vì:
– Đối tượng của văn học nói chung, thơ ca nói riêng là đối tượng thẩm mỹ được phát hiện trong chiều sâu thẩm mỹ (mỗi sự kiện đời sống đưa vào bài thơ đều được nhìn và miêu tả dưới góc độ thẩm mỹ). Chẳng hạn, con đường đến với thơ của Juan Dieu là “nhỏ và nhỏ. “Chiều Thu…)
– Thơ là tiếng nói của cảm xúc, những cảm xúc dâng trào mãnh liệt, là ý thức nhưng cũng là những cảm xúc giàu tính nhân văn, cảm xúc thẩm mĩ (vui, buồn, khao khát, căm giận,…) Ví dụ như cơn giận dữ của con hổ trong vườn bách thú. thơ của Lữ, nỗi buồn đứng trước sông trong thơ Huy Cận, v.v.)
– Thơ hay đáp ứng mục đích tự nhiên của người nghệ sĩ là hướng con người tới chân, thiện, mỹ; đề cao con người, làm cho tâm hồn con người phong phú, trong sáng hơn, làm cho con người sống cao đẹp, nhân văn hơn.
– Tiếp nhận văn học, kể cả thơ và thơ, hay thực chất là tiếp nhận mỹ học, nghe có vẻ trong sáng, tinh tế và ba hoa, không bao giờ chấp những lợi ích cá nhân nhỏ nhen, phải lấy tâm hồn mình để thấu hiểu tâm hồn con người.
* Chứng minh:
Cần làm rõ rằng bài “Tiếng hát Tiểu Thần Ký” của Nguyễn Du là một “thế sự”:
– Vẻ đẹp của cảnh vật, con người được miêu tả.
– Vẻ đẹp và cảm xúc của tâm hồn nghệ sĩ
– Vẻ đẹp về cấu tứ, cách cảm, cách nói, cách dùng từ…
– Cái đẹp là khả năng gợi ấn tượng thẩm mỹ, khơi gợi những cảm xúc thẩm mỹ trong lòng người đọc.
– Dẫn chứng phong phú: các tác phẩm khác của Nguyễn Du và các tác phẩm của các nhà thơ khác như Hồ Xuân Hương, Đặng Trần Côn, Nguyễn Đình Chiểu…
* Tỷ lệ:
– Thơ là thế giới của cái đẹp, là đặc trưng thẩm mĩ của thơ, nhưng cũng là nội dung, mục đích của văn học nói chung: văn học phải hướng tới khẳng định và tôn vinh vẻ đẹp của cuộc sống con người, nhà thơ, nhà văn cũng phải viết về những điều tốt đẹp. để khơi dậy lòng yêu đời, lạc quan ở người đọc.
Không phải lúc nào thơ ca cũng miêu tả cái đẹp. Thơ có quyền khắc họa những điều xấu xa, tàn ác để chân lý cuộc sống chân thực hơn.
Nhà thơ phải là người sống sâu sắc, tinh tế để cảm xúc thăng hoa trên trang thơ, người đọc cũng phải được tác động, thấu hiểu cuộc đời, con người để cảm nhận trọn vẹn thế giới cái đẹp mà nhà thơ miêu tả, muốn hướng đến. .
Bài viết tham khảo:
“Thơ dẫn con người đến cái đẹp. Vẻ đẹp của muôn loài vạn vật, vẻ đẹp của cuộc sống con người. Đó là giá trị khi đi đến vẻ đẹp của sự đồng cảm và đức hy sinh, những phẩm chất của con người. Dù với cảm xúc mãnh liệt hay dịu dàng thì vẻ đẹp ấy cũng để lại cho người đọc những xao xuyến, suy nghĩ, bùi ngùi. Nói đến thơ hay, trong phần “đến với thơ hay”, Lệ Chi Viên cho rằng “vào thế giới của cái đẹp là bước vào thế giới của cái đẹp, dù là điệu đặc hay điệu mượt”. Bài thơ “Hát Tiểu Thanh” của Nguyễn Du.
Ý kiến của Lê Chí Vĩ gây nhiều băn khoăn, suy nghĩ nơi bạn đọc. “Thơ” là những tác phẩm văn học phản ánh cuộc sống, bộc lộ tình cảm, cảm xúc mãnh liệt một cách ngắn gọn, phong phú qua hình ảnh và đặc biệt là qua nhịp điệu. “Bài thơ hay” là bài thơ phải sử dụng ngôn ngữ phức tạp, độc đáo, hình ảnh giàu sức gợi, cảm xúc, hàm súc; Một bài thơ xuất phát từ suy nghĩ và cảm xúc của chính nghệ sĩ là bài thơ khiến người đọc đồng cảm với tác giả, đồng thời hiểu được triết lý và hiện thực của cả một giai cấp, một thời đại dân tộc.
Nói cách khác, “bài thơ hay” là bài thơ kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp nội dung và vẻ đẹp nghệ thuật. “Âm điệu mạnh mẽ” và “Âm điệu êm dịu” là ngữ điệu, tình cảm, cảm xúc được tác giả gửi gắm trong bài thơ, một bài thơ hay là nhịp cầu nối giữa tâm hồn người đọc với tiếng nói đối diện của trái tim người nghệ sĩ. Để rồi qua đây, người đọc bước vào “thế giới của cái đẹp”, cái đẹp của tư tưởng, cảm xúc, nội dung và hình thức nghệ thuật được tác giả gửi gắm qua thơ. Có thể thấy, ý kiến của Lê Chí Vĩ bắt nguồn từ đặc điểm, giá trị thẩm mĩ của thơ ca và nó tác động sâu sắc đến tư tưởng, nhận thức của người đọc khi tiếp cận vẻ đẹp tinh tế, độc đáo của thơ ca.
“Bài thơ hay” là bài thơ giàu triết lí nhân văn sâu sắc với giọng điệu giàu cảm xúc, hồn hậu. Tất cả những trăn trở, những suy nghĩ chân thành, những ấn tượng độc đáo về thế giới quan của tác giả đều gửi gắm trong bài thơ. Nó phải mạnh mẽ, thăng hoa và mãnh liệt đến mức nếu không bật ra được thì người nghệ sĩ sẽ bấn loạn, day dứt và dằn vặt. Vì vậy, thế giới cái đẹp mà nhà thơ sáng tạo ra không đơn giản chỉ là hiện thực vô vị, vô vị của cuộc sống mà trái lại, thế giới đó phải là hình ảnh khách quan trong thế giới chủ quan, tức là nó phải mang những cảm xúc mãnh liệt và những suy tư sâu sắc. Tác giả.
Vẻ đẹp ấy sẽ làm người đọc đồng bộ trong từng tâm trạng, nhịp đập với nhà thơ. “Thế giới của cái đẹp” trong một bài thơ hay được kết nối với người đọc qua “những giai điệu đều đều”., qua những “đường nét uyển chuyển”, cảm xúc mạnh mẽ, sự lên án và phê phán gay gắt của tác giả, sự hy sinh, đồng cảm, thấu hiểu, là giọng thơ khắc khoải, buồn bã của tâm hồn người nghệ sĩ. Vì vậy, “thơ hay” được thể hiện bằng ngôn ngữ nào, ngôn ngữ nào, giọng điệu nào, đều hướng người đọc đến cái đẹp, đến với người nghe “thế giới của cái đẹp”, cái đẹp về nội dung và nghệ thuật đặc sắc.
Nguyễn Du đã đưa người đọc đến với “thế giới của cái đẹp” qua thơ. “Độc Tiểu Thanh ký”. Nguyễn Du (1765-1820) là anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, nhà nhân đạo vĩ đại của nhân dân. Đứng trên bệ nhân sinh với ngòi bút độc đáo của mình, Nguyễn Du đã thể hiện niềm thương cảm với kiếp người trong thơ, trong đó có hình ảnh của phụ nữ và các diễn viên hiện đại và nữ diễn viên. Tiêu biểu cho chủ đề này là bài thơ Độc Tiểu Thanh ký bằng chữ Hán kể về cuộc đời của Tiểu Thanh, một cô gái tài hoa nhưng có cuộc đời éo le. Có thể nói, Nguyễn Du đã đưa người đọc đến với “thế giới của cái đẹp”, vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật qua thơ.
Nguyễn Du đã gửi gắm đến người đọc vẻ đẹp của nội dung bài thơ, vẻ đẹp của sự cảm thông và biết ơn, vẻ đẹp của lòng nhân đạo và lòng trắc ẩn đối với những mảnh đời còn nhiều bất hạnh.
“Phố hoa thanh lịch Tây Hồ”
Độc thân, nhưng hầu hết tiền chỉ là một lá thư.”
Tây Hồ là một hình ảnh cụ thể, một địa danh có thực, đẹp đẽ từng xuất hiện trong bài, nay thành đồi vắng, hoang vắng. Từ hình ảnh cụ thể ấy, nhà thơ đã nối liền sự đổi thay rõ nét của kiếp người. Sự chuyển tiếp giữa cảnh đẹp nay đã thành đồi, giữa hiện tại và quá khứ, giữa vẻ đẹp chỉ còn là hoài niệm nhưng nay đã không còn nữa. Từ đó, cuộc đời Tiểu Thanh thay đổi. Một mỹ nhân xinh đẹp, từ một cô gái xinh đẹp tài năng nhưng nay chỉ còn là nấm mồ. Anh ra đi cô đơn lẻ bóng, bỏ lại bao ước mơ và cả tuổi thanh xuân tươi đẹp. Một con người tài năng nhưng một cuộc đời éo le và số phận.
“Zi” là sự hủy diệt, sự thay đổi triệt để và sự kết thúc của thời gian. Về vấn đề này, những thay đổi khắc nghiệt của cuộc sống. Dường như trong đoạn thơ, người đọc còn đứng trước sự ngậm ngùi, xót xa cho người con gái Nguyễn Du, số phận cay đắng, bất hạnh. Như vậy là tấm lòng của Nguyễn Du đã được bày tỏ sự biết ơn đối với ông. Nhà thơ nhớ đến những người xưa đã đứng nhìn ông một mình trên sân khấu “một mình”. Hình ảnh ấy như rút ngắn không gian và thời gian, để hai con người sống ở hai giai đoạn khác nhau cùng đồng cảm và biết ơn. Hình ảnh ấy là nỗi buồn đau của kiếp tài tử phú quý, tìm được bạn cùng hội cùng thuyền, sẻ chia, xô đẩy. Vẻ đẹp nhân cách của tác giả được thể hiện ở đó.
“Thần Linh của Nữ Vương Thiên Đàng
Văn học không có cuộc sống dư thừa.”
Cả hai câu thơ đều sử dụng nghệ thuật tương phản, nhìn ở những cách nghĩ khác nhau, như một tầng nghĩa. Có thần son nên khi cháy còn khổ, khổ; Văn chương không phải là số phận, nhưng vẫn nung nấu để lại bao nỗi đau trong lòng người. “Nhan sắc son” là vẻ đẹp của sắc đẹp và ngoại hình. “Văn” là vẻ đẹp của tài năng và trí tuệ. Ngay cả khi “Grimm” hay “văn học” bị đốt cháy, sự tiếc thương vẫn còn dành cho hậu duệ của nó. Vẻ đẹp vĩnh cửu của tài năng và sắc đẹp không bao giờ phai. Dù hóa thành tro bụi thì nó luôn khiến thế hệ mai sau phải đau đáu, trăn trở, suy nghĩ. Nghĩ cho một người phụ nữ, nghĩ cho cuộc đời người tình giàu sang, tài hoa nhưng bất hạnh, đầy tủi hờn và cay đắng. Sau nữa, vẻ đẹp mà người đọc nhìn thấy ở Nguyễn Du là vẻ đẹp của sự đồng cảm, vẻ đẹp của sự thấu hiểu và lòng biết ơn, vẻ đẹp còn âm vang trong lòng người đọc.
“Cổ Kim ghét thử thách tự nhiên
Bản thân cuộc phỏng vấn đã đồng ý với sự bất công.”
Ở đây, hận là hận không thể trả lời, hận mà ông trời cũng không trả lời được: Tại sao cuộc đời của “Người Đẹp Học Viện” luôn phải chịu những đau thương, bi kịch không lối thoát? Kiếp người đáng thương. Nỗi hận ấy không ai hiểu được, chỉ có những người cùng cảnh ngộ mới cảm thông, chia sẻ thì Nguyễn Du cũng thấu hiểu nỗi oan lạ lùng đó. Nỗi sầu đau của kiếp người nay đã thành nỗi tủi thân. Một đời người tài hoa và thông minh cuối cùng cũng phải chôn vùi trong bi kịch, để rồi năm tháng trôi qua trở thành một nghĩa địa cằn cỗi, tiêu điều và hoang vắng. Lòng căm thù ấy đối với Nguyễn Du đã đi vào lòng người đọc, nó đầy căm thù và lên án, làm thổn thức tâm hồn, làm kinh ngạc lòng người đọc và khiến người đọc phải suy nghĩ.
“Ba trăm tuổi vô minh
Thiên hạ cầu Như?”.
Tác giả đã xưng tên trong bài thơ trực tiếp bộc lộ tâm tư, tình cảm của mình. Câu hỏi tu từ được nêu ra không chỉ là nỗi xót xa chua xót cho Tiểu Thanh, mà còn là nỗi ngậm ngùi của chính Nguyễn Du. Tiểu Thanh cũng có lòng thương cảm, biết ơn nên ba trăm năm sau mới rơi nước mắt, thương cảm và tiếc nuối cho kiếp người “Thủy dương xỉ” như Nguyễn Du. Câu hỏi buồn ấy dường như khiến người đọc trăn trở, suy nghĩ.
Nguyễn Du còn đưa người đọc đến với “thế giới của cái đẹp” và nghệ thuật qua thể thơ Đường luật độc đáo, sử dụng thành công nghệ thuật đối tượng hoá, nhân hoá và câu hỏi tu từ. Ngôn ngữ và giọng điệu của bài thơ thấm đượm nỗi sầu, buồn và giận, như đã gieo vào lòng người đọc nỗi buồn, sự băn khoăn.
Như vậy, một bài thơ hay sẽ đưa người ta đến với “thế giới của cái đẹp” của cảm xúc, tình cảm, vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật đặc sắc. Thế giới ấy sẽ là cầu nối giữa nghệ sĩ và độc giả. Như vậy, người nghệ sĩ phải biết xây dựng những “thế giới của cái đẹp” trong lòng người đọc, viết bằng tình cảm chân thành nhất, và người đọc phải biết mở rộng trái tim để thưởng thức cái đẹp. Dường như ý kiến của Lê Chí Vĩ đã đưa người đọc đến với giá trị và đặc điểm của thơ ca, đến với “thế giới của cái đẹp”.