Làm rõ tuyên bố: “Mỗi tác phẩm nghệ thuật đều được xây dựng bằng chất liệu lấy từ thực tế. Nhưng người nghệ sĩ không chỉ ghi lại những gì đã có mà còn muốn nói lên những điều mới mẻ”.. (Trích xuất: “Tiếng Hát Văn Nghệ” – Nguyễn Đình Thi)
Trình bày vấn đề cần nghị luận: vai trò của hiện thực cuộc sống đối với văn học, nghệ thuật và yêu cầu đối với nghệ sĩ trong sáng tạo nghệ thuật.
1. Giải thích:
– Công việc: cái tâm của người nghệ sĩ, sản phẩm sáng tạo.
Nghệ sĩ: người tạo ra tác phẩm nghệ thuật.
– Vật liệu lấy từ thực tế: thực tế là vật liệu để xây dựng công trình.
– Ghi lại những gì đã có: sao chép cuộc sống như vốn có.
– Nó muốn nói lên một điều gì đó mới mẻ: tác phẩm thể hiện cái nhìn, sự nghiên cứu hiện thực của chính người nghệ sĩ và gửi gắm những thông điệp của người nghệ sĩ.
– Cặp quan hệ từ: chỉ…. not but also….: chỉ quan hệ bổ túc.
⇒ Ý kiến khẳng định vai trò của hiện thực cuộc sống trong văn học và phát huy sức sáng tạo của người nghệ sĩ.
2. Bàn luận vấn đề:
Tại sao các công trình đều được xây dựng bằng vật liệu lấy từ thực tế?
– Hiện thực cuộc sống là cội nguồn của sáng tạo nghệ thuật, trong đó có sáng tạo văn học. Không có sự sống thì không có sáng tạo nghệ thuật.
– Hiện thực cuộc sống là đề tài vô tận để nghiên cứu, phản ánh văn học, là nguồn tư liệu vô cùng phong phú, sinh động để nhà văn lựa chọn, sử dụng trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Đó cũng là nơi sinh ra các nhà văn, mảnh đất mà các nhà văn sinh sống và hình thành cảm xúc.
Văn học trở thành tấm gương phản chiếu hiện thực cuộc sống để qua tác phẩm người đọc hình dung ra “cuộc đời muôn hình vạn trạng”. Không bám lấy cuộc sống, nhà văn sẽ không thể sáng tạo ra những tác phẩm văn học giàu “đời sống”. Nếu xa rời hiện thực văn học sẽ rơi vào siêu hình, thần bí.
Tại sao nghệ sĩ không chỉ viết cái đã có mà còn muốn nói cái mới?
– Không thể đánh đồng hiện thực cuộc sống với văn học, vì làm như vậy là làm suy thoái văn chương, không hiểu giá trị của sáng tạo nghệ thuật.
– Nếu chỉ đề cập đến cái đang tồn tại thì chưa thỏa mãn nhu cầu lý giải những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống. Người đọc sẽ chỉ nhìn thấy những gì họ nhìn thấy trong cuộc sống trong tác phẩm văn học, khi đó sẽ không cần đến văn học, người đọc chỉ cần sống với cuộc sống thực. Vì vậy, tác phẩm văn học sẽ nhạt nhẽo, vô vị và thiếu sức hấp dẫn.
– Hiện thực cuộc sống, theo cách hiểu của nghệ sĩ, bao gồm những điều ai cũng thấy và những vấn đề người khác không thấy – những điều mới mẻ, sâu sắc luôn nảy sinh từ cuộc sống.
– Để tạo nên một tổng thể nghệ thuật từ những bộ phận riêng biệt của cuộc sống, các chất liệu hiện thực cần được sắp xếp, nhân lên, sáng tạo trên cơ sở những chất liệu đã có. Điều này là do tài năng và công việc nghệ thuật siêng năng của nghệ sĩ.
Tính sáng tạo nghệ thuật, đặc trưng bởi tính cá nhân hóa cao trong lĩnh vực tinh thần, đòi hỏi nhà văn phải dành cho văn học tiếng nói, phong cách riêng của mình, nếu không, tác phẩm sẽ bị lãng quên, lãng phí.
Hiện thực cuộc sống được người nghệ sĩ viết ra không phải là sự phản ánh máy móc, dập khuôn mà được phản ánh bằng tâm hồn, trí tuệ, cảm xúc mãnh liệt của tác giả trước hiện thực. Người nghệ sĩ không chỉ phản ánh cuộc sống mà còn gửi gắm, gửi gắm những ước mơ, khát khao liên quan đến cuộc sống. Qua tác phẩm ta thấy được thông điệp tinh thần mà người nghệ sĩ gửi gắm vào tác phẩm.
Nó đã được chứng minh Truyện “Cô bé bán diêm” của Andersen:
* Tư liệu lấy từ thực tế cuộc sống:
– Câu chuyện cô bé bán diêm không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng mà là một câu chuyện có thật trong cuộc đời tác giả. Andersen có một người bạn ở một thị trấn nọ tên là John. Anh ấy cũng đến thăm John vào mỗi mùa đông. Khi đó, khi vừa đến thành phố, Andessen nhìn thấy dòng sông phủ đầy tuyết, liền đứng trên cầu lặng lẽ quan sát. Chợt anh thấy vạt áo đung đưa, nhìn xuống thì thấy một cô bé ăn mặc rách rưới, chìa ra một giỏ đầy diêm, với ánh mắt van lơn. Andersen vội vã lục túi nhưng không tìm thấy một xu nào. Anh cúi xuống và nói với cô rằng anh không có tiền và anh sẽ mua một que diêm và đưa cho cô khi anh đến đây.
– Năm sau, Andessen trở lại, vẫn đứng trên cây cầu cũ, chợt nhớ đến cô gái và chạy đến một cửa hàng áo len để mua một chiếc áo len thật đẹp. Nhưng tiếc thay, cô gái đã không còn nữa. Chủ cửa hàng cho biết, tháng trước, vào một buổi sáng lạnh giá, người ta tìm thấy cô gái chết cóng ở góc phố. Rải rác xung quanh là những que diêm, một hộp diêm cháy rụi hoàn toàn. Trong giỏ còn có một món quà làm bằng que diêm: “Chú Andersen thân mến!” Andessen đã viết câu chuyện cảm động này, chạm đến trái tim của cô gái.
Andersen không chỉ ghi lại hiện thực đang tồn tại mà còn muốn nói lên cái mới. Truyện thể hiện tấm lòng của nhà văn đối với con người và đưa ra thông điệp về lẽ sống, tình người. Anh mất vào đêm giao thừa, khi mọi người đoàn tụ và vui vẻ nhất. Anh mơ tưởng về tất cả những nhu cầu nhỏ nhặt nhưng thiết yếu nhất của sự tồn tại thực sự của con người. Cô gái nhỏ chết với nụ cười mãn nguyện trên môi. Nó nhắc nhở mỗi chúng ta phải có trách nhiệm với gia đình, và đừng quên những người nghèo xung quanh mình đang rất cần sự sẻ chia, giúp đỡ bởi những số phận bất hạnh và sự ích kỷ.
* Tác phẩm mới của nhà văn:
Những tưởng tượng của anh ấy là những ngôi sao sáng trong đêm giao thừa tối tăm và lạnh giá. Nhà văn đã tạo ra một không gian nghệ thuật tương phản giữa bên ngoài và bên trong:
- Đêm giao thừa se lạnh >< trong những ngôi nhà ấm áp.
- Cái đói, cái rét cắt da cắt thịt >< tâm hồn ấm no hạnh phúc.
- Hiện thực phũ phàng >< tưởng tượng ngọt ngào.
Kết thúc truyện tuy hơi buồn nhưng lại có ý nghĩa nâng cao tinh thần người đọc, thức tỉnh trách nhiệm của bản thân đối với cuộc sống.
Bằng chứng là bài thơ “Vội vàng” của Juan Dieu.
* Tư liệu lấy từ thực tế cuộc sống:
+ Vẽ mùa xuân (ong bướm, hoa lá, cánh đồng, chim muông, ánh sáng…); ảnh hoàng hôn buồn…
+ Thời gian trôi đi một đi không trở lại, khi có cái mất đi, khi mới có dấu hiệu phai tàn, đổ vỡ.
– Cách nhìn và cảm nhận cuộc sống:
+ Cuộc đời nhìn tươi đẹp từ đôi mắt “non xanh” của nhà thơ. Anh khám phá ra “thiên đường trên mặt đất”, niềm vui trên trái đất, thiên nhiên cháy bỏng với tình yêu.
+ Quan niệm thẩm mĩ mới: Ở đời, con người giữa thanh xuân và tuổi trẻ là chuẩn mực, thước đo của mọi cái đẹp (mi sáng lên; tháng giêng ngon như môi kề).
+ Khẳng định bản sắc của cái tôi cá nhân: đây là gã khổng lồ của khát vọng nắm quyền sáng tạo; bản ngã dính mắc với cuộc sống thế tục, khao khát tình yêu, khao khát cuộc sống, muốn thu thập tất cả những lạc thú và cam lồ của cuộc sống; những gì tôi muốn thưởng thức. Cách tận hưởng cuộc sống là tận hưởng tình yêu, và nhà thơ là tình nhân của cuộc sống.
+ Quan niệm sống mới: hạnh phúc là tận hưởng trọn vẹn cuộc sống, chạy đua với thời gian, sống tích cực, sống thanh cao để tận hưởng từng phút giây của cuộc đời. Tác phẩm gửi đến người đọc thông điệp hãy trân trọng từng khoảnh khắc thanh xuân và tuổi trẻ, hãy sống hoài, sống phung phí.
* Nét sáng tạo nghệ thuật mới của nhà thơ:
Thể thơ tự do, kết cấu câu thơ hiện đại (ngắt dòng, câu ngợi ca triết lí…). Nhịp điệu hành khúc, giọng điệu uy nghiêm; sử dụng các kỹ thuật ám chỉ, cấu trúc và đếm; nhiều động từ, tính từ mạnh (ôm, ôm, say, hôn, cắn; no, no, quá nhiều…), tất cả làm cho âm nhạc tươi mới, rộn ràng, sôi động, tiết tấu nhanh, dồn dập.
Nhạc điệu của bài thơ là bản nhạc của “nguồn sống dồi dào vô hình trên mảnh đất yên tĩnh này”. Juan Dieu xứng đáng là người mới nhất trong các nhà thơ mới.
Bằng chứng là truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao.
* Tư liệu từ thực tế cuộc sống:
+ Khung cảnh nông thôn Việt Nam trước cách mạng ngột ngạt, tăm tối với nhiều mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ, địa chủ với địa chủ.
+ Nghèo đói, bất hạnh và những định kiến nặng nề nơi làng quê, dân làng lạnh nhạt, xa cách nhau.
– Cách nhìn và cảm nhận cuộc sống:
+ Đi sâu vào hiện thực: Viết về cuộc sống của những người nông dân Nam Cao không chỉ nói về những nỗi khổ về vật chất mà còn đi sâu khai thác một bi kịch đạo đức nhức nhối: sự tha hóa, bi kịch bị hắt hủi, bi kịch của quyền con người. Khái quát hiện tượng có tính quy luật: xã hội còn áp bức bất công thì người nông dân sẽ bị xa lánh, bị tước đoạt các quyền con người.
+ Giọng điệu nhân đạo sâu sắc, sảng khoái: Nam Cao thể hiện niềm tin vào bản chất tốt đẹp của con người, cả ở tình người trước sự tàn phá của con người. Lời khẳng định tình yêu có sức mạnh cảm hóa to lớn, đánh thức và vực dậy phần con người bị kìm nén, bị chà đạp. Biết trân trọng và đề cao khát vọng làm người chính trực.
* Nét sáng tạo nghệ thuật mới của nhà văn:
Kết cấu vòng tròn, trần thuật theo chu trình tâm lý, điểm nhìn trần thuật linh hoạt, tình huống truyện độc đáo, xây dựng nhân vật điển hình, kiểu nhân vật đa diện, miêu tả sâu diễn biến tâm lý nhân vật; chi tiết nghệ thuật đặc sắc; ngôn ngữ đa âm; có sự kết hợp hài hòa giữa đối thoại và độc thoại, giữa lời gián tiếp và lời nửa trực tiếp. Nam Cao góp phần đổi mới văn xuôi Việt Nam.
3. Thảo luận rộng rãi:
– Trong bài bình luận đã ghi nhận mối quan hệ khăng khít giữa đời sống và nghệ thuật, vị trí và tài năng của tác giả, giá trị và sức sống không ngừng của tác phẩm được khẳng định bởi sự sáng tạo mới mẻ, độc đáo của tác giả, sự độc đáo của mỗi tác phẩm.
– Người nghệ sĩ phải gắn bó với cuộc sống, phải cảm nhận cuộc sống một cách sâu sắc để từ đó khám phá ra cái mới trong chất liệu quen thuộc của hiện thực. Người nghệ sĩ cũng nên có cá tính sáng tạo thể hiện cá tính của mình trong tác phẩm và bổ sung những cái mới cho văn học. Muốn vậy, người nghệ sĩ phải có tài năng, lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp.
Thông qua tác phẩm, người đọc có thể hiểu được hiện thực cuộc sống và khám phá những cái nhìn, cảm nhận mới với phong cách riêng của người nghệ sĩ.
– Tiêu chí đánh giá tác phẩm nghệ thuật là sự phản ánh chân thực, toàn diện không chỉ bản chất của hiện thực cuộc sống mà còn cả những cái mới mà người nghệ sĩ gửi gắm, gửi gắm vào tác phẩm nghệ thuật.
“Nhà văn phải là người thư ký trung thành của thời đại” (Banlzak). “Văn chương là tư tưởng đi tìm cái đẹp trong ánh sáng” (Charles DuBos). Thế giới không được tạo ra một lần, thế giới được tạo ra một lần nữa mỗi khi một nghệ sĩ độc đáo xuất hiện. Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân văn” (Sekhop). “Nhà văn phải biết khơi dậy lòng nhân ái, sự phản kháng cái ác ở con người; mong muốn khôi phục và giữ gìn cái thiện” (Ai Matop). Nó có nghĩa là luôn luôn tạo ra một cái gì đó mới. Ngoài nhiệm vụ ghi lại hiện thực, nghệ thuật còn phải sáng tạo ra một hiện thực mới, một hiện thực luôn bao hàm con người.
- Làm rõ biểu hiện: “Nếu nhà văn chỉ viết cho có thời thì tôi đành bẻ bút vứt đi” (V. Hugo)
- Làm sáng tỏ nhận định: “Văn học sẽ là hình ảnh của cuộc sống dưới mọi hình thức của nó. Không chỉ vậy, văn học còn tạo ra cuộc sống. Cái tầm thường hạn hẹp này không đủ thỏa mãn tình yêu dạt dào của nhà văn. Các nhà văn sẽ tạo ra những thế giới khác.”