Làm sáng tỏ tính chất dân tộc trong 8 dòng đầu bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu.
+ Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị, ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam.
+ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hư và cũng là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp.
– Khái quát nội dung 8 dòng đầu bài Việt Bắc: Đoạn thơ đã tái hiện lại nỗi nhớ da diết chung của đồng bào ta trong cuộc chia cắt lịch sử.
Chủ nghĩa dân tộc trong thơ là gì?
– Tính dân tộc được hiểu là đặc điểm của tác phẩm văn học, đồng thời là thước đo giá trị của tác phẩm. Những tác phẩm văn học hay từ xưa đến nay. Nhưng các tác phẩm đều mang tính nhân bản và tính dân tộc sâu sắc.
– Trong văn học, tính dân tộc được thể hiện cả về nội dung và hình thức nghệ thuật. Về nội dung, tác phẩm có tính dân tộc cần thể hiện những vấn đề nóng bỏng liên quan đến vận mệnh dân tộc, thể hiện được khát vọng, tình cảm và ý chí của một dân tộc. Về hình thức, tác phẩm đó đã tiếp thu một cách sáng tạo những tinh hoa văn hóa của dân tộc. Hiểu như vậy, thơ Tố Hử có một phong cách nghệ thuật “đậm đà bản sắc dân tộc”.
Phân tích tinh thần dân tộc mạnh mẽ trong 8 dòng đầu bài thơ Việt Bắc:
* 4 câu đầu: Nỗi nhớ người ra đi
– Gợi những kỉ niệm xưa, chốn cội nguồn, tình yêu. Ở đây, nhà thơ sử dụng thành công những hình ảnh đối lập trong phong cách dân gian:
Anh về rồi, em có nhớ anh không?
Mười lăm năm nồng nàn và say đắm.
Cảnh chia tay của người ở và người về. Cách xưng hô “mình – ta”: thân mật, gần gũi, như trong ca dao. Từ “nhớ” thể hiện nỗi nhớ da diết, sâu sắc. Cách xưng hô “mình – ta”: thân mật, gần gũi, như trong ca dao. Điệp cấu trúc “tôi nhớ về mình”: lời chúc, gợi lại kỉ niệm “mười lăm năm thiết tha yêu thương”, về thiên nhiên Việt Bắc.
Phần còn lại đặt câu hỏi tu từ “Em có nhớ về anh không” để nhắn nhủ người ra đi, để gợi lại “mười lăm năm thiết tha và nhiệt huyết” trong ký ức của người ra đi. Mười lăm năm ấy, từ năm 1940, sau cuộc khởi nghĩa Bắc Bác Lộ, đến tháng 10 năm 1954, mười lăm năm “ta ở đây, có đắng có ngọt”, mười lăm năm vui cùng khổ, mười lăm năm sướng chung. Cơm nắm muối nặng căm hờn”…sao nói cho xiết bao ân tình. Bốn chữ “đậm đà” cho thấy tình cán bộ Việt Bắc sâu nặng thủy chung, bền chặt. Có lẽ vì thế mà nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Quyền đã nói : “Mười lăm năm ấy” không chỉ được đo bằng thước đo thời gian mà còn bằng thước đo tình cảm con người. Nó là liều thuốc thử làm tăng độ bám của sơn.”
“Em có nhớ anh khi anh về không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Một câu hỏi tu từ khác nảy sinh. Một lời nhắc nhở khác, thú vị. Về Hà Nội, nhìn cây nhớ núi rừng chiến khu, nhìn sông nhớ nguồn Việt Bắc. Cách nhắc như một lời dặn dò kín đáo mà chân thành: Việt Bắc là cội nguồn của cách mạng, là “Nhà cách mạng lập nên Tổ quốc”, trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. Phải chăng câu thơ này là sự vận dụng nhuần nhuyễn, tài tình câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn” của nhà thơ Tố Hu? Qua đây, nhà thơ nhắn nhủ thế hệ mình phải biết nhìn về gốc, thay vì cái gốc, cái nôi tạo nên hình hài cho ta.
⇒ Cả hai câu đều hướng đến nỗi nhớ, một câu nói về thời gian “mười lăm năm”, một câu nói về không gian: sông, núi, suối. Đó là thời kỳ gắn bó nhiều kỷ niệm của người dân Việt Nam với người lính.
* 4 câu sau: Tiếng người về mang bao nỗi nhớ da diết:
Giọng ai nghiêm bên rượu
Tôi buồn trong bụng, tôi bước đi không yên
Màu chàm mang đến buổi chia tay
Nắm tay nhau chẳng biết nói gì…
Từ “trăn trở” biểu thị sự lo lắng, và “băn khoăn” biểu thị sự ngờ vực trong lòng, không muốn rời xa. Miêu tả “Áo chàm” giản dị, thân thương của người dân Việt Nam. Thay lời muốn nói là cử chỉ “nắm tay” đầy tình cảm. Không khí buổi tiệc chia tay thật thân tình, gần gũi, anh không muốn rời xa.
Lời nhắn nhủ của người ở lại: Những lời nhắn nhủ được thể hiện dưới dạng câu hỏi: nhớ quê hương cách mạng Việt Bắc, nhớ thiên nhiên Việt Bắc, nhớ những địa danh lịch sử, nhớ những kỉ niệm đẹp…
Nếu những người phương bắc theo bước chân của người Aranian một cách lâu dài như vậy, thì phản ứng của người Aranian lại đầy sự thương tiếc nghiêm trọng. Không dùng đại từ “tôi”, “ta”, mà người nhận dùng đại từ “ai” là chủ yếu để khẳng định sự gắn bó với người còn lại. Ai có thể là đại từ nghi vấn, nhưng ở đây là đại từ rất gần với cách nói của dân gian: “Nhớ ai thì bồi hồi” Tố Hữu sử dụng rất nhiều phép biến đổi tinh thần và sử dụng hết sức triệt để. từ “ai”. Chỉ một tiếng “ai” của những người về cũng đủ làm tan chảy trái tim của những người tiễn đưa họ, để cho những người về biết bao người thương Việt Bắc và thấu hiểu tâm huyết cách mạng của người Việt Bắc. , cho dân cư trong vùng. xuống. Một từ duy nhất “ai” làm bối rối toàn bộ nơi này. Odurmu: “Khi chúng ta ở lại, đó chỉ là một nơi để ở/ Khi chúng ta ra đi, đất trở nên sống động.”
Những từ “Tôi xin lỗi” và “Tôi xin lỗi” giúp nâng cao tâm trạng của những người đang nói chuyện. Tình yêu và nỗi nhớ như níu chân người ta “Đi một bước, một lần dừng lại” để rồi “nắm tay nhau biết nói gì hôm nay”. Không biết nói gì vì có quá nhiều điều muốn nói. Bao nhiêu cơ duyên trớ trêu không thể diễn tả bằng lời nên đành phải đẩy tình cảm của mình một cách chắc chắn và lâu dài giữa năm bàn tay. “Nắm tay nhau” là biểu tượng của tình yêu thương và sự đoàn kết. Chỉ cần nắm tay nhau và để hơi ấm nói lên tất cả, tình yêu, sự nhớ nhung và lòng biết ơn giờ đây sẽ ấm áp như hơi ấm của đôi bàn tay. Dấu chấm lửng cuối câu như tăng thêm tình yêu nồng nàn, dạt dào, vô tận. Nó giống như một nốt tắt trên khuông nhạc, nơi cảm xúc lắng sâu. Như vậy, nhìn con người Việt Nam đẹp đẽ với những phẩm chất tiêu biểu của dân tộc: nhân ái, trung hậu, thủy chung.
Tỷ lệ:
Tố Hữu có năng khiếu nghệ thuật cao khi sử dụng thành công thể thơ lục bát, một thể thơ truyền thống của dân gian, để thể hiện tình cảm cách mạng. Từ xưa đến nay, lục bát thực chất là thể thơ dễ đi vào lòng người bởi nhạc điệu ngọt ngào độc đáo. Nếu dùng để bộc lộ cảm xúc thì không còn gì tuyệt hơn. Hay, nhiều nhà thơ đã khéo léo vận dụng lối đối đáp vốn là hình thức diễn đạt quen thuộc trong ca dao.
Chính điều này đã làm cho bài thơ trở nên ngọt ngào và thấm đượm tinh thần dân tộc. Hơn nữa, ngôn ngữ nói chung là yếu tố góp phần to lớn vào việc khơi gợi tinh thần dân tộc của tác phẩm, đặc biệt là 8 khổ thơ đầu. Ngôn ngữ thơ Việt Bắc mượt mà, uyển chuyển, nhất là với những đại từ nhân xưng ngọt ngào, sâu lắng ta thường bắt gặp trong những bài thơ tình yêu đôi lứa.
Về hình thức, tính dân tộc còn thể hiện ở hình ảnh. Vì vậy, núi liền hình sông: “Trông cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Đây là hình ảnh chiếc áo chàm trong “Phiên biệt ly”. Chiếc áo chàm là hình ảnh ẩn dụ cho những con người Việt Bắc thân thiện nhưng rất anh hùng. Những con người ấy đại diện cho dân tộc Việt Nam vừa oai phong, vừa hào hoa: “Tao đeo gươm, ta cầm bút mềm mại/ Sống kiêu hãnh mà xót xa”.
Tính dân tộc được thể hiện vô cùng thành công, không chỉ về mặt nghệ thuật mà cả về nội dung, tư tưởng. Việt Bắc nói chung, tám câu thơ đầu nói riêng phản ánh đậm nét hình ảnh con người Việt Bắc trong thời kỳ cách mạng; hài hòa tình cảm cách mạng và tiếp nối truyền thống tinh thần, đạo đức của dân tộc.
Bằng tài năng nghệ sĩ và trái tim không ngừng sục sôi ý chí cách mạng, Tố Hữu đã viết nên bản tình ca, bản hùng ca đậm đà bản sắc dân tộc. Để rồi Việt Bắc trở thành một trong những bài ca khó quên, thực sự không bao giờ quên.
- Làm sáng tỏ tính dân tộc đậm đà của thơ ca Việt Bắc qua đoạn: “Em về, anh có nhớ…”
- Làm sáng tỏ khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn qua đoạn thơ: “Con đường Việt Bắc của ta…” (Việt Bắc – Tố Hữu)