+) Thông điệp: “Làm sao để”
Tác dụng: Nhấn mạnh, gây sự chú ý vào vấn đề đang nghị luận, thể hiện cảm xúc đau xót, trăn trở của tác giả.
+) Đối với: “công nghiệp hóa nông thôn – căn bệnh ung thư của nông dân”, “tăng lợi nhuận đầu tư – xử lý rác thải làm hại môi trường sống”, “tăng trưởng, làm giàu – giết nguồn nước cho tương lai”, “Sân golf mang lại niềm vui cho người đánh gậy – sầu chủ cuốc cày”…
Tác dụng: nhấn mạnh điều ngược lại: lợi ích của người này không phải là lợi ích của người khác
“Bao giờ mới biết lấy ngọn sậy, bỏ gốc sậy cho người khác” Đó là mình biết ôm lấy phần nhạt nhẽo, bất tiện về mình và giành phần ngọt ngào, giàu sang cho người khác. Tôi thực sự lớn lên sau đó.
“Vịt con xấu xí sẽ hóa thiên nga”: một hình ảnh tượng trưng thể hiện quan điểm của tác giả: vẻ đẹp thực sự của một con người là vẻ đẹp trong tâm hồn anh ta. Yếu tố quan trọng nhất tạo nên vẻ đẹp tinh thần là lòng vị tha, biết sống vì người khác.
(Các thí sinh có thể có ý kiến khác nhưng việc giải thích phải hợp lý, hợp đạo lý, văn hóa và pháp luật thì mới được chấp nhận).
– Thí sinh biết cách viết bài văn nghị luận xã hội và vận dụng tốt các thao tác lập luận.
– Bài viết đảm bảo bố cục ba phần, diễn đạt rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả, từ vựng, ngữ pháp.
Thí sinh có thể nộp bằng nhiều cách, nhưng phải đáp ứng các yêu cầu sau:
– Chúng tôi: Tập thể, cộng đồng, xã hội.
=>Tôi chúng ta: Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội
– Mỗi người trong cuộc sống là một cá thể riêng biệt, không phân biệt cuộc sống, tính cách, năng lực, sở thích… riêng biệt, không ai giống ai. Họ có quyền sống, quyền theo đuổi đam mê, quyền lựa chọn con đường của mình và thể hiện cá tính sáng tạo độc đáo của mình. Sự tồn tại của mỗi cá nhân là một chủ thể có ý nghĩa, nhận thức được vai trò của bản ngã của cá nhân là động lực để mỗi người cố gắng khẳng định mình.
– Tuy rất độc lập nhưng con người không phải là cá nhân đơn lẻ, nó luôn tồn tại trong mối quan hệ với xã hội. Con người là tổng hòa của những tương tác đa chiều, mỗi cá nhân là một tế bào của xã hội.
Không hòa nhập với xã hội, sự tồn tại của mỗi cá nhân sẽ vô cùng đơn điệu và nhàm chán. Chỉ khi có sự liên kết, gắn bó với mọi người, với xã hội thì cuộc sống của mỗi cá nhân mới thực sự có ý nghĩa và mới có cơ hội hợp tác cùng phát triển.
– Sự kết nối, hòa nhập, đồng cảm và sẻ chia giữa các cá nhân sẽ làm cho cuộc sống ấm áp hơn, xã hội nhân văn hơn, tăng thêm sức mạnh của xã hội. Ngược lại, xã hội luôn là chỗ dựa vững chắc, là nơi tạo điều kiện để mỗi cá nhân phát triển và khẳng định mình.
– Phê phán: +) Lối sống cá nhân ích kỷ, hẹp hòi.
+) Người không có ý thức về cái tôi cá nhân sống cuộc sống buồn tẻ, chạy theo đám đông.
0,5
0,5
0,5
0,5
0,5
– Ý thức tích cực sâu sắc về cái tôi cá nhân để vươn lên và tỏa sáng.
– Hội nhập, kết nối với xã hội để cuộc sống có ý nghĩa thực sự.
Em hiểu nhận xét trên như thế nào? Hãy nêu quan điểm của bạn bằng cách ca ngợi bài thơ Tự Tình II của Hồ Xuân Hương và liên hệ nó với một loạt bài tự trào bắt đầu bằng “Thân em..”
– Kiểm tra năng lực viết nghị luận văn học của thí sinh. Nó đòi hỏi thí sinh phải vận động để kiểm tra lí luận văn học, tác phẩm văn học, kĩ năng làm văn và kĩ năng cảm thụ văn học.
– Thí sinh có thể cảm nhận và diễn giải theo nhiều cách khác nhau nhưng phải có lý do và chứng minh xác đáng.
– Thí sinh biết cách viết một bài văn nghị luận văn học và vận dụng tốt các thao tác lập luận.
– Bài viết đảm bảo bố cục ba phần, diễn đạt rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả, từ vựng, ngữ pháp.
Thơ là tiểu sử của người nghệ sĩ, nhưng không chỉ viết về mình, mà từ chuyện mình đến chuyện người, chuyện đời.
– Nạn đói: Những khát khao, hoài bão, khát khao… thường trực, mãnh liệt trong tâm hồn con người, hướng tới những điều lớn lao, tốt đẹp phía trước.
Khát vọng được thể hiện qua thơ, tức là được chuyển tải qua hình thức ngôn ngữ cụ thể của bài thơ, qua cảm xúc, sự sáng tạo của tác giả.
=>“Thơ là tiểu sử của những ham muốn”: Nêu đặc điểm và giá trị của bài thơ.
Bài thơ là tiếng nói của nội tâm với những rung động tình cảm và thái độ sống của tác giả. Cảm xúc trong bài thơ không phải là thứ cảm xúc buồn tẻ, yếu ớt mà là thứ cảm xúc mãnh liệt nhất, thôi thúc người nghệ sĩ sáng tạo.
Mỗi bài thơ, ra đời từ nhu cầu yêu thương và thể hiện mình của người nghệ sĩ, đều có một trái tim riêng ghi dấu ấn riêng của tác giả.
Thơ tuy bộc lộ nỗi niềm, tâm sự riêng nhưng tác phẩm thơ chân chính bao giờ cũng có ý nghĩa khái quát về con người, cuộc đời, nhân sinh. Mỗi bài thơ không chỉ là tiếng nói riêng của nhà thơ mà còn là tiếng nói của đồng loại. Người đọc đến với thơ để tìm tiếng nói đồng điệu, tìm tâm hồn nhà thơ trên trang viết.
– Những gì thể hiện trong bài thơ không chỉ dừng lại ở những cảm xúc trấn an, quan trọng hơn là những ước vọng, nguyện vọng, khát khao của con người. Khi tiếng nói riêng của nhà thơ hòa với khát vọng muôn thuở của nhân loại thì tác phẩm đạt đến tầm phổ quát, đạt đến giá trị vĩnh cửu.
0,25
0,25
0,25
– Nội tâm của nhân vật trữ tình là cái tôi đau đớn, tê tái khi cảm nhận sâu sắc tấn bi kịch của nhân cách mình. Nữ ca sĩ tài hoa hơn người nhưng cuộc đời trớ trêu, trớ trêu thay chỉ có đắng cay cay đắng. Tình éo le, phận tủi nhục…(Trung hòa mặt hồng nước non. Trăng chưa tròn…)
– Không khuất phục trước số phận, nhân vật trữ tình phản ứng gay gắt, dữ dội muốn bứt phá và đứng dậy. Cuối cùng, nỗi đau và phản ứng của Hồ Xuân Hương là sự khát khao cháy bỏng tình yêu và hạnh phúc.
– Nỗi niềm riêng của Hồ Xuân Hương cũng là tiếng nói chung, khát vọng chân thành, mãnh liệt của người phụ nữ trong xã hội phong kiến còn nhiều bất công, mâu thuẫn. Bởi vậy, thơ Hồ Xuân Hương rất gần gũi, có sự đồng điệu đặc biệt với những câu ca dao mở đầu bằng “Thân em…”.
– Trong ca dao tự sự, tình cảm của người phụ nữ trăm chiều. Trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, cùng với những quan niệm cổ hủ, những phép tắc lễ giáo khắt khe, những điều bất công, điên rồ và mâu thuẫn nhất đều tập trung trong cuộc đời người phụ nữ. Họ hoàn toàn không có quyền quyết định số phận của mình mà phụ thuộc vào hai từ “may mắn” hay “xui xẻo”.
– Qua câu ca dao mở đầu bằng “Thân em…”, người đọc không chỉ thấy được sự than thở trước những nỗi khổ, bất hạnh mà còn là sự tự nhận thức sâu sắc về giá trị và vẻ đẹp của người phụ nữ. (Thân em như tấm lụa đào. Thân em như sâu gai. Trong trắng, ngoài đen…). Và hơn hết, mỗi câu dân ca ấy là một khát vọng gửi gắm mãnh liệt. Đó là mong muốn được thấu hiểu, được thích nghi và được đồng cảm; mong muốn được nuông chiều; khao khát tình yêu, hạnh phúc…
– Tình cảm, ước vọng của người phụ nữ trong Hồ Xuân Hương hay ca dao không chỉ là những tâm tư, tình cảm cá nhân mà còn là những ước vọng nhân sinh sâu sắc muôn thuở của loài người.
2.0
2.0
0,5
0,5
0,5
0,5
– Nhà thơ bày tỏ nỗi lòng, đồng thời nói lên tiếng nói chung của mọi người bằng những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của mình.
– Người đọc đến với thơ để nghe tự truyện, từ đó tự nâng mình lên, vươn tới những vẻ đẹp, những giá trị đích thực của cuộc sống.