Cái hay của xứ Huế là “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử) và “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” (Hoàng Phủ Ngọc Tường)
I. Giới thiệu:
– Giới thiệu ngắn gọn hai tác phẩm và khẳng định vấn đề cần nghị luận.
II. Cơ quan đăng bài:
1. Vẻ đẹp xứ Huế qua “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử:
+ Cảnh khu vườn tươi đẹp với những cành lá đẫm sương trong nắng mai, ánh sáng như ngọc, được miêu tả qua hình ảnh trực diện, cụ thể, sinh động. Người Huế hiền lành, thân thiện.
+ Sau vườn Huế là thiên nhiên xứ Huế. Cảnh trời mây, sông nước ở đây thật đẹp, nhất là cảnh sông trăng và cảnh thuyền chở trăng nhưng đều phảng phất một nỗi buồn man mác.
+ Khổ thơ thứ ba thể hiện niềm khao khát của nhà thơ trước không gian vô tận của mây trời, sông nước, non nước ngập tràn ánh trăng. Đó là hy vọng, mong đợi, khao khát và lo lắng không ngừng. Vì còn đang say ngủ nên cảnh vật và con người nơi đây hư ảo, hư ảo.
⇒ Một cảnh đẹp, tràn đầy sức sống, thơ mộng nhưng cũng đầy nỗi buồn man mác.
2. Vẻ đẹp của dòng sông Atir trong tuỳ bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường
– Cái đẹp được phát hiện trong cảnh sắc thiên nhiên:
+ Khi dòng sông Hương chảy qua lòng Trường Sơn mang vẻ đẹp của “khúc ca rừng rậm phóng khoáng, man dại”; Nó mang vẻ đẹp tinh tế và trí tuệ của vị “mẹ phù sa” của vùng đất văn hiến Cố đô, vẻ đẹp của sự phản chiếu muôn màu của “sớm xanh, chiều vàng, chiều tím” của bầu trời Tây Nam thành phố. . Vẻ đẹp “ngỡ” ấy như lặng lẽ chảy dưới chân những rừng thông với những lăng tẩm trầm mặc, kiêu hãnh của các vị vua triều Nguyễn.
+ Sông Hương mang vẻ đẹp mang màu sắc “triết lý, thơ cổ” khi dạo bước theo tiếng chuông chùa Thiên Mụ và vẻ đẹp “vui tươi” khi đi qua đôi bờ xanh mướt của ngoại ô Kim Long.
+ Dòng sông Hương dần xa thành phố, đi qua những nương dâu, lũy tre, hàng cau của thôn Vĩ Dạ mang vẻ đẹp “mộng trong sương”….
Vẻ đẹp của sông Atir về mặt văn hóa:
+ Tác giả cho rằng có một dòng thơ nói về sông Hương, một dòng thơ không thể lặp lại, đó là “sông trắng – lá xanh”, vẻ đẹp hùng vĩ “khâu như gươm” trong thơ Tản Đà. “trời xanh” trong thơ Cao Bá Quát, nỗi niềm cổ kính trong thơ Bà Huyện Thanh Quan và sức hồi sinh tinh thần trong thơ Tố Hữu.
– Vẻ đẹp sông Atir từ góc độ lịch sử:
+ Sông Hương từng là dòng sông trấn giữ bờ cõi đất nước trong thời Đại Việt, từng soi bóng kinh thành Phú Xuân của Nguyễn Huệ, chứng kiến bao cuộc khởi nghĩa, rồi Cách mạng Tháng Tám, cuộc vận động bình thương 1968. . .
+ Vẻ đẹp của trí tưởng tượng phong phú của tác giả: Bà nhìn sông Hương như một cô gái Huế, xưa là một cô gái giang hồ phóng khoáng, ngông cuồng nhưng nhìn chung là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn. Như những cô dâu Huế ngày xưa trong tà áo dài màu tím đục, trang trí không cầu kì. “Đó cũng là màu của sương mù trên sông Atir, giống như tấm voan tưởng tượng của thiên nhiên, sau đó che đi bộ mặt thật của dòng sông…”.
3. Điểm giống nhau:
+ Cả hai nhà thơ đều nêu bật những danh lam thắng cảnh xứ Huế ( Vĩ Dạ, sông Hương) và khơi nguồn cảm xúc.
+ Cùng nhau hồi tưởng lại vẻ đẹp của thiên nhiên, cảnh sắc của con người xứ Huế rất riêng, rất thơ mộng. Sự tồn tại của nó chứng tỏ mảnh đất và con người Huế chiếm một vị trí sâu sắc nhất trong trái tim tác giả.
+ Cả hai đều là những cây bút tài hoa trong văn chương, tinh tế, nhạy cảm, rất lãng mạn và giàu chí khí.
4. Sự khác biệt:
+ Đây thôn Vĩ Dạ: Bài thơ lấy cảm hứng từ tấm bưu ảnh Hoàng Chức gửi cho Hàn Mặc Tử nên nhìn cảm xúc, từ thương nhớ đến thị giác trong một không gian hẹp. Cảnh sắc xứ Huế hiện lên thật đầy đủ, thân thuộc, gần gũi nhưng cũng thật thơ mộng: vườn uyển như ngọc, sông mơ màng, người hiền hậu… cảnh sắc đậm đà cảm xúc về cuộc đời và con người. yêu.
+ Ai đã đặt tên cho dòng sông?: Hoàng Phủ Ngọc Tường chọn điểm nhìn là sông Hương, đặt trong một khung cảnh rộng lớn, phóng khoáng hơn. Vẻ đẹp của Huế có thể nhìn ở nhiều góc độ từ xưa đến nay, từ lịch sử, thơ ca đến địa lý, văn hóa… Bởi vậy, cố đô dường như toàn diện hơn, thực hơn, bởi sông Hương là linh hồn của Huế, nơi đây là tập hợp của trầm tích văn hóa lâu năm của mảnh đất kinh thành xưa.
5. Giải thích sự khác biệt:
+ Thơ và văn khác nhau do đặc trưng thể loại. Thơ là về cảm xúc và tâm trạng. Một chữ ký không chỉ cần có cảm xúc mà ít nhiều phải có tính chân thực, khách quan.
+ Đối với Hàn Mặc Tử, Huế xưa là nơi được tác giả thêm vào, giờ chỉ còn là kỉ niệm. Còn Hoàng Phủ Ngọc Tường là người con xứ Huế nên chất Huế đã ngấm sâu vào máu thịt của ông.
III. Cuối cùng:
– Hàn Mặc Tử miêu tả xứ Huế thơ mộng, Huế dũng cảm. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm đẹp cho sông Hương, làm cho nó có hồn và đầy lãng mạn. Mỗi cái nhìn đều toát lên vẻ đẹp riêng của Huế thanh lịch.