Dàn bài: Phân tích tinh thần chiến đấu của bộ đội trong bài thơ Việt Bắc (Tố Hữu).
I. Giới thiệu:
– Để giới thiệu tác giả với Hữu
– Trình bày thơ Việt Bắc
– Trình bày đoạn trích
II. Cơ quan đăng bài:
1. Tinh thần quật cường của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Việt Nam:
– 2 câu đầu: Mở ra cảnh sinh hoạt của Việt Bắc trong những đêm ra quân:
+ “Những nẻo đường Việt Bắc”: địa danh vô cùng rộng lớn.
+ “Đêm đêm điệp điệp” thời gian cứ nối tiếp nhau không ngừng.
+ So sánh “như đất nung” + “kế thế” “Khí thế hào hùng chấn đất, động trời.
+ Sự lớn mạnh của quân đội ta về sức mạnh và tốc độ.
– 6 câu tiếp: Phối hợp lực lượng tác chiến:
* Hình ảnh đoàn quân ra trận:
– Các từ ngữ: “ trùng điệp” “ những đoàn quân nối tiếp nhau như những đợt sóng bất tận.
– Hình ảnh “Ngôi sao cầm vũ khí” là một bài thơ đẹp gợi nhiều liên tưởng:
– Nghệ thuật nhân hóa: ánh sao theo đoàn quân, treo trên vũ khí, soi mọi nẻo đường _thiên nhiên trở thành người bạn đồng hành của người chiến sĩ.
– Ẩn dụ: ánh sao _ lí tưởng cách mạng luôn soi đường, niềm tin lạc quan tràn đầy sức mạnh vì tương lai tươi sáng.
* Hình ảnh hiệp công:
– Đuốc đỏ rực soi đường, sáng lên hình ảnh những anh dân quân tiếp tế lương thực, tải đạn cho đủ loại người: già, trẻ, gái, trai… họ đến từ làng quê bằng mọi phương tiện: xe đạp thồ, thúng mủng. , cáng… ra tiền tuyến, anh quyết tâm vượt qua khó khăn nguy hiểm để bảo đảm vũ khí, thuốc men, lương thực.
– Cách nói phóng đại “bước… bay”: vừa diễn tả một lực lượng đông đảo, vừa là một lực lượng hùng hậu đang phục vụ trên chiến trường. Cuộc đấu tranh của chúng ta là cuộc đấu tranh của nhân dân, đã bộc lộ sức mạnh của toàn dân tộc.
– Hình ảnh thơ đẹp “lửa bay muôn nơi”, “đuốc đỏ” – xua tan đi cái lạnh lẽo, tăm tối nơi núi rừng.
– Điệp từ “nhục” “trùng” “trùng” + “nát” giúp tạo giọng điệu hùng tráng, hùng tráng.
* Hình ảnh đoàn xe
– Bức tranh ”Đèn lồng đang cháy” ánh sáng rực rỡ xuyên qua đêm đen.
– Hình ảnh ẩn dụ:
- “nghìn đêm” Cựu nô lệ.
- “sương mù dày”: đặt ra những thách thức, khó khăn.
– So sánh: “Khi ngày mai trỗi dậy” hình ảnh thơ thể hiện niềm tin tưởng, lạc quan – tượng trưng cho tương lai tươi sáng của đất nước.
– Tiết tấu nhanh, mạnh, dồn dập. Giọng điệu hào hùng, sôi nổi; hùng vĩ, hình ảnh thơ đẹp.
– Bài thơ tràn ngập ánh sáng: ánh sao, ánh đuốc, chiếc chiếu…, ánh sáng của niềm tin, niềm vui khôn xiết. Tất cả cộng lại tạo nên một bản hùng ca chiến thắng. Việt Bắc không còn là của ta hay của ta nữa mà là của ta – của toàn dân kháng chiến Việt Nam.
2. Tin tức về niềm vui chiến thắng nối tiếp nhau từ khắp mọi miền đất nước:
– Từ “vui mừng” như tiếng reo mừng chiến thắng, phấn khởi, hân hoan, tự hào khi tin vui chiến thắng vang về khắp mọi miền đất nước.
– Phép liệt kê các địa danh nối chữ “trăm huyện” mở ra không gian chiến thắng rộng lớn từ miền núi đến đồng bằng, từ bắc chí nam.
– Nhịp thơ nhanh, tươi vui, sôi nổi thể hiện tốc độ thần tốc, thần tốc của những cuộc khải hoàn.
– các từ “em vui”, “em mừng”, “em vui” đặt Việt Bắc vào trung tâm của mọi niềm vui.
– Giọng thơ thiết tha, sôi nổi, rạo rực trong lòng hàng triệu con người từ bắc chí nam.
III. Cuối cùng:
– Mô tả vấn đề
Bài viết tham khảo:
Bài thơ Việt Bắc được nhà thơ Tố Hữu viết vào tháng 10 năm 1954, tức là sau chiến thắng Điện Biên Phủ (tháng 5 năm 1954), miền Bắc được giải phóng. Các cơ quan trung ương của đảng và nhà nước chuyển từ Việt Bắc (thủ đô kháng chiến) về Hà Nội. Nỗi nhớ người về là nguồn cảm xúc lớn để Tố Hữu viết bài thơ này. Bài thơ Việt Bắc được trích trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hu (1947 – 1954). Bài thơ bộc lộ nỗi nhớ của người cán bộ cách mạng (đồng thời là nhà thơ) đối với chiến khu Việt Bắc khi rời chiến khu Hà Nội. Bài thơ là lời điếu văn cho cảnh vật và con người Việt Bắc: Cảnh đẹp Việt Bắc hùng vĩ… con người Việt Bắc dễ mến, cảnh vật và con người nơi đây đã làm nên biết bao anh hùng để tạo nên những kỉ niệm chân thực. quên. Đặc biệt, trong thơ Tố Hữu đã viết nên khúc tráng ca hùng tráng về con người kháng chiến và trường kỳ kháng chiến. Điều này được thể hiện rõ qua câu ca dao sau:
Con đường Bắc Việt của tôi
Đêm ầm ầm như đất rung chuyển
Quân đội gián điệp điều tương tự
Starlight với chiếc mũ trên vũ khí của bạn.
Người dân thắp đuốc đỏ theo nhóm
Dấu chân nát đá bay lửa.
Nghìn đêm sương mù
Đèn pha sáng như mai.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui trở lại
Hạnh phúc từ Đồng Tháp, An Khê
Lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Tên bài thơ là Việt Bắc. Việt Bắc được coi là quê hương của cách mạng, đây là Pắc Pó, nơi Bác Hồ đặt chân đầu tiên khi Người về nước (tháng 2/1941), nơi diễn ra Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng, của Mặt trận Việt Minh. đã được hình thành. Việt Bắc có mái đình Hồng Thái, có cây đa Tân Trào – nơi đã diễn ra Đại hội đại biểu toàn quốc ngày 16/8/1945 bầu ra Ủy ban giải phóng dân tộc của cả nước, đồng thời cũng là nơi xuất phát của quân cách mạng. Phát hành Tây Nguyên.
Trong kháng chiến chống Pháp, Việt Bắc là chiến khu kiên cố, nơi đóng quân của các cơ quan đảng, nhà nước. Việt Bắc còn là nơi chứng kiến bao chiến công hiển hách, thể hiện khí phách anh dũng của quân và dân ta trong chín năm kháng chiến.
Trước hết, hình ảnh hào hùng của quân và dân ta trong cuộc trường kỳ kháng chiến được tái hiện trong bài thơ. Cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta là cuộc kháng chiến kiến quốc. Các tầng lớp nhân dân, già trẻ lớn bé, già trẻ lớn bé đều tham gia kháng chiến. Trong đó, nổi bật nhất là nhân vật Bác Hồ. Thời chống Pháp, người lính trải qua nhiều gian khổ nhưng rất anh dũng, lạc quan.
Hình ảnh hào hùng của đoàn quân ấy được thể hiện qua hai câu đầu của bài thơ:
Quân đội gián điệp điều tương tự
Ánh sao đầu súng em và nón
Hai từ “điệp điệp” và “trùng điệp” được hòa quyện với nhau trong câu thơ giàu sức gợi ấy không chỉ làm sống lại hình ảnh một đoàn quân đông đảo mà còn gợi lên sức mạnh và khí phách hào hùng của một tập thể. Đoàn quân tiến ra mặt trận hùng hậu, mang theo cả lòng yêu nước và sức mạnh của lý tưởng cách mạng, khát vọng chiến đấu và chiến thắng kẻ thù.
Câu thơ thứ hai ngắt nhịp 4/4: “Ánh sao đầu súng/ Bạn đội nón quai thao” càng làm tôn thêm vẻ đẹp của người lính – một vẻ đẹp vừa lãng mạn vừa hiện thực sâu sắc. Hình ảnh “ánh sao đầu súng” có thể là hình ảnh tiêu biểu cho ánh sao treo trên vũ khí của người lính mỗi đêm hành quân, chẳng hạn “Trăng treo đầu súng” của Tố Hữu trong bài thơ Đồng chí Chính; “Ánh sao đầu súng” ấy cũng có thể là ánh sáng của ngôi sao gắn trên mũ người lính, ánh sáng của lí tưởng cách mạng soi đường cho người lính bước đi, như nhà thơ Ngô Cao đã viết trong bài “Núi đôi”. :
Tôi đi bộ với những ngôi sao trong chiếc mũ của tôi
Một vì sao sáng luôn dẫn đường
Cả một khối quần chúng tham gia kháng chiến, góp phần làm nên chủ nghĩa anh hùng của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Họ là những “công dân nhóm đuốc đỏ” tải lương thực, tải vũ khí phục vụ chiến trường. Hình ảnh của họ đẹp đẽ, hào hùng và lạc quan như những người lính:
Người dân thắp đuốc đỏ theo nhóm
Dấu chân đá nát ngàn tia lửa bay
Khi nói “Dấu chân là sỏi đá”, nhà thơ đã nhấn mạnh sức mạnh của lòng yêu nước, yêu lý tưởng cách mạng, ý chí quyết tâm chiến thắng kẻ thù của những người nông dân cần cù. Công nhân và nông dân (đội quân chủ lực của cách mạng) là lực lượng đã góp phần to lớn vào thắng lợi sau này của cuộc kháng chiến chống Pháp – Họ là những người nông dân chất phác, nhân hậu, lớn lên từ cây tre, cội lúa nhưng với tất cả tình cảm cao cả và hành động, họ đã đi vào cuộc kháng chiến, bất chấp hy sinh, gian khổ, chịu đựng bom đạn của kẻ thù, đạp bằng mọi trở ngại để chiến thắng kẻ thù, theo tiếng gọi của lòng yêu nước và lý tưởng cách mạng như nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã nói. Quốc gia bài viết:
Ôm đất nước của những người trong quần áo
Hãy trỗi dậy như những anh hùng.
Hai hình ảnh như “vết hằn trên đá” và “vạn vật tung bay” đã thể hiện hào khí anh hùng của nhân dân.
Dù bao nhiêu gian khổ, hàng nghìn đêm trôi qua trong “sương mù thăm thẳm” thì niềm lạc quan tin tưởng vào ngày mai thắng lợi vẫn sáng ngời. Đó là ánh sáng lý tưởng cách mạng soi đường dân tộc ta đi qua đêm dài nô lệ, như những “ngọn đèn thắp trong ngàn đêm sương mù” mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc. đến ngày mai tươi sáng, đến kỷ nguyên cách mạng thắng lợi vẻ vang – đến kỷ nguyên độc lập, tự do:
Nghìn đêm sương mù
Đèn pha sáng như mai.
Chính những sức mạnh và niềm tin đó đã mang lại niềm vui chiến thắng. Tin vui thắng lợi nhanh chóng, liên tục trên nhiều mặt trận đã làm nức lòng quân và dân ta:
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui trở lại
Hạnh phúc từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng
Từ “vui” được lặp đi lặp lại nhiều lần đã đánh thức những làn sóng cảm xúc dâng trào, dâng trào, tràn ngập tâm hồn nhà thơ, lòng quân, dân lần lượt dâng trào.
Nhà thơ Tố Hữu đã thể hiện một cách sinh động khí thế hào hùng của quân và dân ta trong đoạn thơ này với phong cách thơ ngọt ngào, chất thơ trữ tình cách mạng sôi nổi, hào hùng và thiết tha như ca dao. tiếng Pháp ở Việt Bắc; Đồng thời bài thơ cũng thể hiện tinh thần lạc quan cách mạng, quyết tâm chiến đấu và đánh thắng kẻ thù, giành những thắng lợi vẻ vang, đem lại niềm vui cho dân tộc. Bài thơ như một bản hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp.