Đặc điểm của tác phẩm tự sự
1. Phản ánh cuộc sống một cách khách quan thông qua sự thật
Tác phẩm văn học là sự miêu tả đời sống khách quan thông qua cảm nhận, khái quát, đánh giá và thể hiện chủ quan của người nghệ sĩ, là sự thống nhất biện chứng giữa chủ quan và khách quan. Theo phương pháp phản ánh đời sống, truyện là loại tác phẩm phản ánh đời sống một cách khách quan: con người, hành động, sự việc do một người kể chuyện nhất định kể lại. Nó có nội dung liên quan đến tính chủ quan của người kể chuyện.
Người kể chuyện ở một mức độ nào đó nằm ngoài câu chuyện được kể. Để tạo nên một câu chuyện hoàn chỉnh thì trong truyện phải có những sự việc khách quan diễn ra. Để các sự kiện xảy ra, phải có những người hoặc nhân vật di chuyển, cảm nhận và tương tác với nhau. Tất cả những người và sự kiện này hoạt động và tồn tại ở những nơi và thời gian nhất định.
Tính khách quan ở đây thực chất chỉ là nguyên tắc đem lại sức sống và sức thuyết phục cho người đọc của tác phẩm tự sự. Tác phẩm tự sự nhằm phản ánh cuộc sống, con người thông qua các sự kiện, sự việc của nó, có tác dụng bộc lộ những mặt nào đó của bản chất con người. Ví dụ, khi nói về bản chất xấu xa của Lý Thông, người ta nói rằng anh ta kết nghĩa với Thạch Sanh rồi lừa dối anh ta và đi bảo vệ con mèo thay thế. Theo Phương Lựu, “tính khách quan là nguyên tắc hình thức dựa trên nội dung, nó thể hiện khả năng phản ánh hiện thực kiểu tự sự rất quan trọng”. Nhà văn trần thuật, miêu tả những gì đang diễn ra bên ngoài mình, làm cho người đọc có cảm giác hiện thực được phản ánh trong tự sự là một thế giới chất dẻo nhất định, tự nó phát triển và tồn tại bên ngoài nhà văn, không phụ thuộc vào cảm xúc, mong muốn của nhà văn. Để có cái nhìn khách quan, tác phẩm tự sự nhằm phản ánh đời sống thông qua các sự việc và hệ thống sự việc.
Tác phẩm tự sự không chỉ phản ánh tồn tại vật chất với những hành động, việc làm của con người. Nó cũng phản ánh thế giới nội tâm của con người, bao gồm tâm trạng, cảm xúc và suy nghĩ của họ. Hegel nói: “Những cảm giác, những suy nghĩ, cũng như mọi thứ dường như đã xảy ra, đã nói, đã nghĩ, phải được truyền đạt… “Những sự kiện riêng biệt”, như tôi đã nói nhiều lần, là những hình thức. thuật lại câu chuyện theo nghĩa đen”. Nhà văn cho rằng, những gì nhân vật đang nghĩ, đang cảm thấy, vui hay buồn, xấu hổ,… cần được phân tích và nhìn nhận.
Như vậy, tác phẩm tự sự đại diện cho toàn bộ thế giới, bao gồm cả những hiện tượng bên ngoài và bên trong con người, xem chúng như những sự thật khác nhau về đời sống con người và xã hội. Nó có khả năng phản ánh cuộc sống một cách bao quát khi miêu tả con người trong những mối quan hệ phức tạp với môi trường của họ.
2. Khả năng phản ánh hiện thực một cách bao quát, toàn diện
Nhà văn làm sống động cả thế giới, thế giới, tất cả những biểu hiện bên trong và bên ngoài của con người, nhưng nhìn chúng như những sự thật khác nhau về cuộc sống của con người. Thực tế là sản phẩm của mối quan hệ giữa con người với môi trường nên nó mở ra khả năng phản ánh cuộc sống một cách rộng rãi hơn, miêu tả con người trong nhiều mối quan hệ phức tạp giữa họ với thế giới, với môi trường.
Nguyên tắc phản ánh hiện thực khách quan đặt lời trần thuật ở vị trí nhân tố hình thành thế giới nghệ thuật của tác phẩm tự sự, đòi hỏi nhà văn phải sáng tạo hình tượng người kể chuyện. Việc phân chia tác phẩm tự sự thành các thể loại nhỏ hơn có thể dựa trên tiêu chí nội dung hoặc tiêu chí hình thức. Theo Lê Bá Hán: “Nếu chia theo nội dung thể loại sẽ có: tác phẩm có đề tài lịch sử dân tộc, thế sự, đạo đức, đời tư. Nếu chia theo hình thức thì có các thể loại chính: sử thi, truyện ngắn, tiểu thuyết. , truyện ngắn, ngụ ngôn,…”.
Các sự kiện trong tác phẩm tự sự là những mối quan hệ của thế giới, bộc lộ các khía cạnh khác nhau của nó. Phương Lựu cho rằng: “Theo sự liên kết của sự kiện, người kể có thể đưa người đọc đến những miền đa dạng nhất, trở về quá khứ hay lao vào hiện tại, nhìn mặt này mà hướng về mặt kia. đối với kịch và tác phẩm trữ tình, tính tự sự của tác phẩm hầu như không bị giới hạn về không gian và thời gian, có thể kể về những khoảnh khắc, kể về những sự kiện đã xảy ra qua nhiều thế hệ, hàng chục năm, hàng trăm năm”. để bao quát cuộc sống hiện thực.Trong một tác phẩm trần thuật không gian và thời gian không bị giới hạn. Nhà văn có thể thể hiện những vùng đất khác nhau, quay ngược thời gian hoặc hòa mình vào hiện tại, kể một khoảnh khắc hay một thập kỷ ở một nơi nào đó hoặc ở nhiều quốc gia.
Các nhân vật thường có số phận, con đường và quá trình phát triển trải qua các giai đoạn khác nhau. So với các nhân vật khác, trong tác phẩm tự sự, nhân vật được miêu tả khá công phu, từ hình dáng bên ngoài đến nội tâm, quá khứ, hiện tại và chiều hướng phát triển, v.v.
3. Nhân vật trong tác phẩm tự sự
Trong tác phẩm tự sự, nhân vật cũng là yếu tố chính, đó là tên gọi, lịch sử, quá trình, số phận, v.v. là một loại ký tự. Ngược lại với nhân vật trữ tình, nhân vật trần thuật được trung tâm miêu tả tương đối cụ thể trên nhiều phương diện: ngoại hình. , chuyển động, nội tâm và đặc biệt là trong mối quan hệ với các nhân vật khác. Từ đó, nhân vật mới bộc lộ bản chất thật của mình, cũng như những thay đổi diễn ra trong cuộc đời nhân vật phụ thuộc vào mối quan hệ này.
Nhân vật có vẻ tự do hành động theo ý mình, nhưng thực ra mọi hành động của anh ta đều chịu sự tác động của hoàn cảnh, ngoại cảnh. Nhân vật trần thuật có thể được miêu tả tỉ mỉ từ chân dung bên ngoài đến suy nghĩ bên trong, từ quan hệ này sang quan hệ khác. Nhà văn sẽ lí giải tâm tư, tình cảm vui buồn, tuyệt vọng hay tự tin của nhân vật thông qua sơ đồ trần thuật với tư cách là đối tượng phân tích, nhìn nhận.
Nhân vật trần thuật có thể được miêu tả cả bên trong và bên ngoài, lời nói và không lời, tình cảm, cảm xúc, ý thức và vô thức, quá khứ, hiện tại và tương lai… những hành động tiếp theo dẫn đến những sự kiện tiếp theo trong cuộc đời nhân vật. Chẳng hạn, trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao, khi Chí Phèo tỉnh dậy sau cơn say, có một đoạn dài miêu tả nội tâm về lý do khát khao hạnh phúc của anh ta, sau đó là hành động đòi quyền làm người.
4. Hình ảnh diễn giả
Người kể chuyện là nhân vật cụ thể, tức là người kể về nhân vật và những sự kiện, sự việc nhất định trong tác phẩm. Truyện có người kể chuyện, người kể chuyện, có điểm nhìn, có giọng điệu thuyết minh. Nhân vật này có nhiệm vụ phân tích, điều tra, lý giải, đánh thức, cắt nghĩa, làm sáng tỏ mọi mối quan hệ phức tạp giữa nhân vật và hoàn cảnh. Người dẫn chuyện Tấm giới thiệu lai lịch của nhân vật trong đoạn mở đầu truyện Tấm, giải thích: “Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Không đi lại được, mẹ Tâm qua đời. Không lâu sau, người cha cũng qua đời. Tấm ở với dì ghẻ, mẹ Cám. Nhân vật này có thể lộ diện, có thể ẩn danh nhưng người đọc luôn cảm nhận rõ nét, gần gũi tâm hồn của người kể chuyện này qua cách kể, giọng điệu, điểm nhìn, cách dẫn dắt, phân tích, lý giải cốt truyện.
Trong tác phẩm tự sự, tác giả xuất hiện với tư cách là người trần thuật để phân tích, khám phá, khơi gợi, cắt nghĩa, làm rõ mọi mối quan hệ phức tạp giữa các nhân vật và các tình huống. Người đọc nhận ra nhân vật người kể chuyện từ cái nhìn, cách cảm nhận, cách suy nghĩ, năng lực trí tuệ và chất cảm,… cùng với tính cách người kể chuyện còn có điểm nhìn trần thuật thể hiện. góc nhìn, khoảng cách gần và xa đối với các sự kiện được mô tả.
Người kể chú ý đến các chi tiết của câu chuyện, lời nói và việc làm, bỏ qua những điều nhỏ nhặt, để đưa phẩm chất và phẩm hạnh của nhân vật lên hàng đầu. Vì vậy, phần giới thiệu nhân vật và kết thúc truyện thường khách quan, ngắn gọn và không bộc lộ cảm xúc. Người nói thiết lập một cuộc đối thoại với người nghe và người xem, thay mặt họ đặt câu hỏi, giải thích câu chuyện của mình, dừng ở đâu, tách từng câu chuyện, tiếp tục ở đâu, v.v. , đôi khi kể những câu chuyện từ quá khứ, đôi khi từ hiện tại.
Những đặc điểm nêu trên làm cho tự sự trở thành một thể loại văn học có khả năng quan trọng trong đời sống tinh thần của con người hiện đại. Nguyên tắc phản ánh hiện thực khách quan đã đặt câu chuyện vào vị trí một nhân tố tạo nên thế giới nghệ thuật của tác phẩm tự sự, đồng thời đòi hỏi nhà văn phải sáng tạo ra hình tượng người kể chuyện. Trong một câu chuyện truyền thống, người kể chuyện thường là người ngoài cuộc, hoặc chính tác giả, thường không được nêu tên. Nhưng trong truyện hiện đại, nhân vật người kể chuyện có thể ở ngôi thứ nhất xưng hô với tôi, nhân vật đó có thể là nhân vật trong truyện (ông giáo trong truyện ngắn Lão Hạc-Nam Cao) hoặc ngôi thứ ba, người kể chuyện đứng ngoài. câu chuyện).
Loại nhân vật này có tiếng nói thể hiện qua thị giác, cảm giác, tư duy, năng lực trí tuệ, tình cảm thể hiện qua ngôn ngữ. Như vậy, nhân vật người kể chuyện cũng trở nên cá thể hóa. Chính giọng điệu này đã phần nào quy định phong cách của tác giả. Chẳng hạn, lời người kể trong tác phẩm của Thạch Lam luôn giàu hình ảnh giàu cảm xúc và có khuynh hướng trữ tình.
Mỗi câu chuyện đều có người kể chuyện riêng. Tác giả xuất hiện với tư cách là người trần thuật để phân tích, khám phá, khơi gợi, cắt nghĩa, làm rõ mọi mối quan hệ phức tạp giữa các nhân vật và hoàn cảnh. Trong tiểu thuyết, trong truyện, những người do tác giả đại diện hành động với sự giúp đỡ của tác giả, tác giả luôn ở bên họ. Tác giả dạy người đọc cách hiểu nhân vật, miêu tả bản chất, trình bày tình huống và nói chung là luôn giật dây, giải thích những tâm tư thầm kín của nhân vật, động cơ bí ẩn đằng sau hành động của họ, truyền tải tâm trạng của họ đến người đọc. để đạt được mục tiêu của họ.
5. Ngôn từ trong tác phẩm tự sự
Văn bản của tác phẩm tự sự có cấu trúc và bố cục khác với kịch và lời bài hát. Viết tường thuật có thể là thơ hoặc văn xuôi, luôn hướng đối tượng. Nó luôn hướng người đọc đến một thế giới đối tượng khác với lời ca hay đối thoại của kịch, tập trung vào cảm xúc và ý định của người nói. Nhà văn thường sử dụng những câu trình bày hoặc miêu tả thuộc tính, đặc điểm, hình dáng, hành động của nhân vật, tên gọi của sự vật. Vì lời nhân vật trong tác phẩm tự sự là một chuỗi văn bản tự sự nên thường được giải thích, cắt nghĩa trước khi nhân vật nói.
Văn bản tự sự có khả năng tường thuật quá lập luận để hướng tới những bức tranh toàn cảnh về các tình huống, thời kỳ hoặc quá trình nhân cách diễn ra trong không gian và thời gian rộng lớn. Nhờ đó, tác phẩm tự sự có khả năng phản ánh hiện thực sâu sắc, chi tiết và trở thành một thể loại văn học chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống tinh thần của con người.
Văn bản tự sự có chức năng tái hiện và phân tích các sự kiện, hiện tượng tĩnh như phong cảnh, chân dung, tâm trạng, môi trường, hình thức, đối tượng hoặc các sự việc có tính chất tái diễn thường xuyên. Văn học tự sự cũng có thành phần tự sự rộng lớn vượt lên trên sự miêu tả cụ thể của cảnh vật và ngôn từ, với khả năng bao quát rộng rãi. Phương Lựu cho rằng: “Tự sự có một năng lực bao trùm vô song mà chỉ nghệ thuật điện ảnh mới có được khi ống kính có chức năng miêu tả của tự sự”1. Trong một tác phẩm tự sự, văn bản chủ yếu là tự sự và miêu tả. Chẳng hạn, truyện Chí Phèo của Nam Cao dùng cách miêu tả khuôn mặt Thị Nở: “Khuôn mặt của Thị Nở là sự trớ trêu của hóa học”. Nó có thể được viết bằng văn vần hoặc văn xuôi nhưng bao giờ nó cũng hướng người đọc đến đối tượng mà nó miêu tả.