Đặc điểm của sáng tác văn học
1. Xác định phạm vi ký giữa các hệ thống phân loại.
Trước hết, cần xác định tọa độ của dấu hiệu trong hệ thống thể loại văn học một cách chính xác và nhất quán để từ đó có những khả năng cần thiết. Sở dĩ phạm vi sáng tác hiện nay bao trùm một quá trình có tính chất rất đa dạng là bởi nó được đặt trong một hệ thống phân loại: thơ – tiểu thuyết – kịch – hồi ký. Nếu chúng ta chấp nhận sự phân chia văn học thành các loại chung: văn học trữ tình, tự sự, kịch, thẩm mĩ. Nhưng trong thực tiễn văn học xưa và nay, có một loại văn, dù không phải là văn thẩm mỹ, vẫn giữ được giá trị nghệ thuật, đó là văn chính luận nên được bổ sung vào hệ thống thể loại. văn học.
Một. Theo hệ thống thơ – tiểu thuyết – kịch – kí.
So với ba loại còn lại, kí phải bao gồm tất cả các loại văn xuôi còn lại. Nhưng nếu chúng ta thừa nhận rằng sự phân chia chung của văn học thành ba loại: trữ tình, tự sự, kịch, vẫn còn tương đối hợp lý, thì theo hệ thống này, chẳng hạn, không chỉ thơ trữ tình mà bất kỳ loại thơ nào cũng rất ít. chủ yếu là trữ tình. chắc chắn nên được xếp vào thể loại trữ tình như văn. Viết luận là về tình cảm, không phải thông tin thực tế. Trong tùy bút, sự thật chỉ đơn giản là cái cớ để chủ thể bộc lộ nội tâm hoặc sử dụng ngay hình ảnh trong tùy bút Nguyễn Tuân như một cái “đinh” đóng vào bức tường cảm xúc của tác giả.
Trong hệ thống này, chữ ký phải chứa phần còn lại của các loại văn xuôi. Và nếu chúng ta chấp nhận hệ thống trữ tình-tự sự-kịch, thì có lẽ, trước hết, có những tác phẩm trữ tình như vậy, mà cho đến nay vẫn được gọi là tiểu thuyết cổ tích, và chúng nên được xếp vào loại trữ tình. . Bởi vì bài luận chủ yếu là thông tin không thực tế.
b. Theo hệ thống trữ tình – tự sự và kịch.
Sự phân chia thành ba loại trữ tình-tự sự và kịch là đúng với văn học thẩm mỹ. Như vậy, nên so sánh thể ký với một loại hình văn học mới. Do đó, các thể loại vốn trước đây được coi là thể văn chính luận nên được xếp vào thể văn chính luận. Viết chính trị chủ yếu dành cho thông tin gây tranh cãi hơn là thông tin thực tế. Tất nhiên, có sự thật trong cách giải thích, nhưng đây chỉ là một phần của cuộc tranh luận. Phần lớn hơn và quan trọng hơn của văn chính luận là luận cứ và luận điểm.
Phản ánh hiện thực là quy luật chung của văn học, phản ánh đúng sai, đủ thiếu lại là chuyện khác. Nhưng ngay cả những tác phẩm văn học trữ tình và gây tranh cãi, thậm chí nguyên bản, chân chính, cũng không nhất thiết phải là tiểu luận và hồi ký chính trị. Vì vậy, nếu xếp vào hệ thống trữ tình-tự sự-kịch-chính luận thì tự truyện sẽ được quy định chặt chẽ hơn và sẽ không đưa vào văn tự sự mà sẽ rất phong phú chứ không hề nghèo nàn. . Tuy nhiên, do tiểu luận chính trị chủ yếu nhằm chuyển tải lý lẽ hơn là sự kiện nên không thể ký chính luận như trước. Có thể sắp xếp bài văn chính luận thành một bài văn. Như vậy, chữ ký sẽ không bao gồm chữ ký luận và chữ ký chính luận. Ký có thể được phân biệt với kịch, trữ tình và chính luận.
2. Người thật – việc thật trong 12 cung hoàng đạo.
Tính xác thực của chữ ký chủ yếu nằm ở việc thể hiện người thật. Đây là những sự kiện, địa điểm, tên, số thực. Vì liên quan mật thiết đến người thật việc thật nên chữ ký rất xác đáng, phục vụ nhu cầu biết sự thật, thông tin liên quan kịp thời hơn của độc giả. Đáp ứng nhu cầu tìm hiểu thông tin thực tế của độc giả. Chẳng hạn, trong tác phẩm tự truyện “Người mẹ vũ trang” của Nguyễn Thi, các sự kiện và con người cũng sục sôi trong không khí đấu tranh chính trị và vũ trang. Viết về sự việc có thật trong cuộc sống, chỉ ra một cách trân trọng tính chính xác của đối tượng được miêu tả. Đặc điểm này tạo nên sự tin tưởng và gần như là một giao ước giữa người viết và người đọc. Cùng một nội dung sự thật nếu được phản ánh kịp thời thì có sức hấp dẫn và gây xúc động lớn.
Tác phẩm văn học có giá trị như một tư liệu lịch sử quý giá do được kể bằng lời người thật việc thật, đồng thời có ý nghĩa và tác dụng to lớn đối với hoạt động sáng tạo nghệ thuật sau này. Đặc điểm cơ bản và quan trọng nhất của chữ ký là tính xác thực. Tất nhiên, tính xác thực của người thật, việc thật bao hàm tâm trạng, lý lẽ của con người thật ấy. Polevoy từng nói: “Chữ ký có một địa chỉ chính xác.” Các nhân vật được tạo ra phải là người thật ngoài đời, các sự kiện được miêu tả phải bám sát vào địa điểm. Không phải ngẫu nhiên mà ở nước ngoài người ta gọi thể loại văn học này là “văn học phóng sự”, “văn học tư liệu – nghệ thuật” v.v.
Với bản chất và nguồn gốc của nó, chữ ký nhằm mục đích cung cấp thông tin thực tế hơn là thông tin thẩm mỹ, nhưng điều này không có nghĩa là chữ ký không có tính chất nghệ thuật. Tầm quan trọng mang tính nghệ thuật bởi vì, trên hết, ngay cả trong hiện thực, nó cũng bao hàm tính thẩm mỹ, đồng thời, chính khát vọng nhận biết sự thật góp phần tạo nên các quan hệ thẩm mỹ. Bám sát người thật, việc thật, tác phẩm được bình phẩm có thể rút ngắn tương đối khoảng cách giữa tác phẩm nghệ thuật thực và cuộc sống, phục vụ nhu cầu hiểu biết cuộc sống của độc giả kịp thời hơn.
3. Tính chất, phạm vi, mức độ hư cấu của tác phẩm ký sự.
Một. Thiên nhiên:
Vấn đề là viết về người thật việc thật. Văn nhân bao gồm họ tên, xuất thân, ngoại hình, gia cảnh, bối cảnh văn hóa, thành tích, thời gian, địa điểm, địa hình, địa vật, thời tiết, các mối quan hệ xã hội chủ yếu, diễn biến chính, số lượng, v.v. chúng phải đạt được tính chân thực tối đa với một số yếu tố nhất định như biển báo phải bảo đảm tính xác thực về sự việc, con người. Ngoài ra, tác giả có quyền sắp xếp, kết nối các sự kiện sao cho có ý nghĩa, và thêm thắt một số nội dung bổ sung cho một mục đích cụ thể.
Truyện hư cấu sẽ sử dụng các thành phần không xác định, chủ yếu là nội tâm của nhân vật. Nhà văn có thể sử dụng tính cách và tình hình chung để hình dung các sự kiện bên trong của họ. Liên tưởng trên là những khung cảnh thiên nhiên trong cảm xúc trữ tình của nhân vật. Cuối cùng, các nhân vật phụ thêm sinh động nhưng không làm mất logic khách quan của câu chuyện.
b. Mức độ:
Tác phẩm văn học có thể là hư cấu, nhưng nói chung là ít và thường mơ hồ về nội dung và nhằm góp phần tái hiện chân thực người thật. Tác giả có quyền sắp xếp, kết nối các sự kiện một cách hợp lý, bổ sung những nội dung bổ sung cho những mục đích nhất định, chủ yếu phù hợp với bản chất bên trong của nhân vật. Nhà văn có thể sử dụng tính cách và tình hình chung để hình dung các sự kiện bên trong của họ. Ngoài ra, ta thấy rằng sự thật diễn ra trong một địa điểm và một thời điểm nhất định của sự vận động lịch sử nên càng mang lại ý nghĩa cho một hiện tượng không lặp lại trong lịch sử. Tiểu thuyết có thể được mô tả và nói trong tương lai với sự trợ giúp của trí tưởng tượng
Người viết có tư tưởng và tình cảm hoàn toàn đúng đắn thì cứ sao chép, ít nhất là nghe, thấy, tức là nghe hoặc chứng kiến trước khi sao chép. trường hợp chứng kiến và viết lại, người viết vẫn không thể kể hết sự việc hoặc nhớ tường tận mọi việc đã xảy ra, v.v. Người viết chỉ nghe kể chuyện mà không chứng kiến, nghe được từ nhiều người. Trực tiếp hoặc gián tiếp từ nhiều nguồn khác nhau và trong mọi trường hợp, người kể không thể biết hết, không thể nhớ hết.
c. Giới hạn:
Đây không phải là vấn đề cơ bản nhất, nhưng nó rất quan trọng miễn là chúng ta nhận ra tầm quan trọng tương đối của từng phạm vi. Con người thật bao gồm họ tên, xuất thân, ngoại hình, gia cảnh, nền tảng văn hóa, thành tích,… thời gian, địa điểm, địa hình, thời tiết, v.v. có những bộ phận cấu thành nhất định như các quan hệ xã hội cơ bản, diễn biến cơ bản của các sự kiện, v.v. Những yếu tố xác định này, tác giả của dấu hiệu nên cố gắng đạt được tính nguyên bản tối đa. Tuy nhiên, ngay trong những thành phần này, nhiều chỗ người viết bất lực, không biết gì nên đành phải hư cấu. Hư cấu sẽ được sử dụng rộng rãi trong các thành phần mơ hồ, chủ yếu là nội tâm của nhân vật. Nhà văn có thể dựa vào tính cách và tính khái quát để hình dung các sự kiện bên trong, cũng như tính chất, nhân vật phụ và sự sắp xếp, tổ chức của hệ thống cốt truyện.
Nhà văn trong tác phẩm văn học có thể hư cấu, nhưng nhìn chung có phần hạn chế và thường ở những thành phần không xác định.
d. Nhân vật tường thuật của dấu hiệu:
Để tăng tính xác thực cho con người và sự kiện trong tác phẩm kí, người kể thường là tác giả đóng vai trò chứng kiến. Nhân vật này trực tiếp bàn bạc, đánh giá đối tượng, khác với nhân vật người trần thuật thường ẩn mình trong thể loại tự sự. Vì cái “tôi” của tác giả được bộc lộ trực tiếp nên khuynh hướng của tác phẩm rất rõ ràng, khen chê, yêu ghét rõ ràng.
Do nhân chứng trực tiếp bộc lộ vai trò của người trần thuật nên tính chất trữ tình của người trần thuật rất cao, thậm chí có thể gọi là nhân vật trữ tình. Cái “tôi” của tác giả có quyền bộc lộ trực tiếp xu hướng bằng ngôn ngữ chính luận trữ tình của mình.