Cảm nhận vẻ đẹp nỗi nhớ miền Tây của người lính trong đoạn thơ Thái Tiến Và miền bắc Việt Nam qua hai câu thơ sau:
“Sông Mã xa rồi, Tài Tiến ơi!
Nhớ núi nhớ chơi
Sài Khao phủ quân mỏi
Mường Lát hoa về đêm”
(Tài Tiến – Quang Dũng)
“Không nhớ gì như nhớ người thân
Mặt trăng ở đầu núi, mặt trời ở giữa trưa
Nhớ từng bản khói sương
“Lửa người thương đi sớm về khuya”.
(Việt Bắc – Tố Hữu)
* Gợi ý bài tập về nhà:
I. Giới thiệu:
Ai cũng có ít nhất một nỗi buồn trong đời. Có lẽ vì thế mà nỗi nhớ đã trở thành đề tài quen thuộc được các nhà văn, nhà thơ yêu thích. Nếu như ở “Tài Tiến” Quang Dũng vô cùng nhớ đến thiên nhiên và con người miền Tây thì ở “Việt Bắc” nhà thơ không chỉ nhớ đến con người và thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng mà còn nhớ đến những tháng ngày kháng chiến, những trận đánh gian khổ, anh dũng. hơn nữa là dấu vết tươi mới của những ngày chiến thắng. Trong số nhiều hoài niệm, nổi bật là những kỷ niệm của Quang Dũng, Tố Hữu về những vùng đất, những địa danh đã làm nên lịch sử. Và điều này được thể hiện rõ nhất trong hai câu thơ sau:
“Sông Mã xa rồi, Tài Tiến ơi!
Nhớ núi nhớ chơi
Sài Khao phủ quân mỏi
Mường Lát hoa về đêm”
(Tài Tiến – Quang Dũng)
“Không nhớ gì như nhớ người thân
Mặt trăng ở đầu núi, mặt trời ở giữa trưa
Nhớ từng bản khói sương
“Lửa người thương đi sớm về khuya”.
II. Cơ quan đăng bài:
1. Giới thiệu chung về tác giả và tác phẩm:
– Quang Dũng là một nghệ sĩ tài hoa, vẽ đẹp, hát hay, làm thơ giỏi. Ông gia nhập Quân đội nhân dân Việt Nam vào ngày Cách mạng Tháng Tám thành công và trở thành phóng viên tiền tuyến của báo Mubariza. Năm 1947, ông được cử đi học tại Trường Trung học Quân sự Sơn Tây. Sau khóa học, anh giữ chức vụ Đại đội trưởng, Tiểu đoàn 212, Trung đoàn Tây Tiến. Ông tham gia chiến dịch Tây Tiến lần thứ hai qua Tây Bắc. Cuối năm 1948, sau chiến dịch Tây Tiến, ông là trưởng tiểu ban tuyên truyền Trung đoàn 52 Tây Tiến, rồi Đoàn văn công Liên khu III.
– Quang Dũng viết nhiều truyện và kịch, tham gia nhiều triển lãm tranh sơn dầu với nhiều họa sĩ tên tuổi… nhưng thành công nhất vẫn là thơ. Người đọc đã quen thuộc với những tập thơ tiêu biểu của Quang Dũng như “Mây đội đầu ô”, “Mùa hoa gạo”… Nhưng tên tuổi của Quang Dũng có lẽ gắn liền với bài thơ “Tài Tiến”. Bài thơ được viết năm 1948 khi dự Đại hội đại biểu toàn quân Liên khu III tại làng Phù Lưu Chanh. “Tài Tiến” là một bài thơ mang đậm nét hào hùng, bi tráng xen lẫn lãng mạn, hào hoa.
– Tố Hữu là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng với phong cách trữ tình chính trị. “Việt Bắc” là bài thơ tiêu biểu nhất của ông, thể hiện tình cảm cách mạng sâu sắc của nhân dân đối với cách mạng, của người cán bộ trở về nước, của người ở lại, những kỉ niệm thời kháng chiến gian khổ mà hào hùng.
2. Cảm nhận hai đoạn thơ:
Phân tích đoạn thơ: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi… Mường Lát đêm hoa về”.
– 2 khổ thơ đầu: nêu cảm nghĩ chủ đạo của cả bài thơ. Đó là nỗi nhớ và nỗi nhớ.
+ Câu thơ thứ nhất ngắt nhịp 2/2/3 đều, ngắt nhịp. Khi nhớ đến sông Mã, Quang Dũng thấy ngay là xa vắng nên “Ôi tài tiến” vừa là tiếng gọi da diết, nỗi nhớ, vừa là làn sóng cảm xúc, hoài niệm da diết. Vì sao khi nhớ về Tài Tiến, Quang Dũng lại nhớ đến tên sông Mã? Bởi suốt chặng đường hành quân của họ, dòng sông Mã là người bạn đồng hành, chứng kiến biết bao kỉ niệm, bao đau thương, mất mát.
+ Ở khổ thơ thứ hai, tác giả nói rõ hơn về niềm nhớ nhung, nhớ nhung của mình với núi rừng và cảm giác chơi vơi với nó. Vì địa bàn hoạt động của các chiến binh phần lớn là rừng núi hiểm trở, cách xa Tài Tiến nhưng điều đó đã ăn sâu vào tâm khảm của các chiến binh. Còn “hoài niệm” là một trạng thái cảm xúc mơ hồ, không xác định rõ ràng. Đặc biệt, hai từ “chơi vơi” kết hợp với từ “onda”, “à” tạo nên sự hài hòa của cảm giác bứt rứt trong câu văn trên, lan tỏa không dứt. Cha ông ta đã ghi lại những tình cảm ấy trong câu ca dao như nỗi nhớ nhung, xao xuyến, rạo rực: “Đi về nhớ bạn bè”.
+ Cả hai dòng đều kết thúc bằng vần “ơi”, “chơi”. Nó mô tả một cái gì đó xa xôi như mất mát. Cảm xúc của tác giả như bức bối, vật vã vì Tây Tiến chỉ là quá khứ trong hiện tại. Nỗi nhớ và tiếng gọi của tác giả đã làm cho Tài Tiến trở thành một bản thể có hồn, chuyển tải được tâm tư tình cảm của nhà thơ Quảng Dung.
– 2 câu thơ tiếp theo:
+ Sài Khao, Mường Lát, là những địa danh rất quen thuộc của Tây Bắc góp phần tạo nên nỗi nhớ. Trong sương khói câu thơ, hình ảnh Tây Bắc hiện ra, bao mệt nhọc, vất vả của đoàn quân như lẫn trong sương. Nó có vẻ huyền diệu nhưng thực tế, bên cạnh sự khó khăn pha lẫn một chút thơ:
“Mường Lát hoa về đêm”.
+ Một dòng rất độc đáo “bông hồng đến” chứ không phải hoa nở, “đêm bớt” hơn là sương đêm. Vì đoàn quân Tây tiến từ xa về Mường Lát mang theo đuốc như dòng sông hoa lấp lánh ẩn hiện trong màn sương đêm. Đọc đến đây thì “sự mệt mỏi” của quân đội dường như tan biến. Quang Dũng quả là thiên tài khi viết câu thơ đa phần đều đều, nhẹ tênh như sương, như hoa, như hồn người. Bên cạnh sự khắc nghiệt của núi rừng, hiểm nguy của trận mạc, đó cũng là những lúc người lính thả hồn mình lãng mạn. Đó cũng là chất thơ thoát ra từ hiện thực chiến tranh, một nét rất đặc trưng cho hồn thơ thiên phú của Quang Dũng.
Phân tích bài thơ: “Nhớ gì chẳng bằng nhớ người yêu….
– Nỗi nhớ Việt Bắc sâu nặng, đằm thắm của người cán bộ kháng chiến, đan xen giữa tình cảm cá nhân và cộng đồng.
– Đoạn thơ là nỗi nhớ người nhớ cảnh Việt Bắc, mảnh đất gắn bó máu thịt với những người cách mạng. Không diễn tả chi tiết nỗi nhớ nhung Tố Hữu sử dụng hình ảnh so sánh rất độc đáo “nhớ đâu như nhớ người thương”. Nhà thơ đã dùng nỗi nhớ trong tình yêu làm thước đo giá trị để cắt nghĩa, lí giải tình cảm của người cán bộ đối với nhân dân. Bởi vậy, đó không phải là nỗi nhớ của sự tỉnh thức, duyên nợ mà là nỗi nhớ của hai trái tim yêu thương, yêu nhau chân thành.
– Đoạn thơ “Anh lên đỉnh núi, lưng anh nắng” thể hiện hai nửa thời gian của niềm khao khát: nửa đầu là thời gian của đêm trăng, nửa sau là thời gian của buổi chiều lao động. . . Thời gian như chảy ngược, nỗi nhớ đi từ gần đến xa. Để rồi trong tình cảm gia đình, tình thương biến thành nỗi nhớ. Cả một vùng núi rừng Việt Bắc được bao trùm bởi không khí gia đình đầm ấm:
“Nhớ từng bản khói sương
“Sáng sớm nhóm lửa người thương về nhà”.
Hiện ra trong nỗi nhớ là một Việt Bắc thân thương, đẹp bình dị mà thơ mộng với nhịp sống êm đềm. Hình ảnh “lò lửa” gợi nhiều liên tưởng. Nó thể hiện tình người Việt Bắc ấm áp, thân tình và cũng thể hiện tình cảm thiết tha, yêu thương của người cán bộ cách mạng khi nhớ về đồng bào nơi đây. Tình quân dân kết tinh trong ngọn lửa thiêng bất diệt ấy.
3. So sánh cách thể hiện nỗi nhớ trong hai bài thơ:
* Điểm giống nhau:
+ Tất cả đều thể hiện nỗi nhớ gắn với một miền quê nào đó. Nếu “nỗi nhớ rong chơi” của Quang Dũng gắn liền với địa danh Tây Tiến thì “nỗi nhớ người yêu” của Tố Hữu lại gắn bó mật thiết với địa danh Việt Bắc.
Ngôn ngữ thơ của ông giản dị, mộc mạc và đầy ẩn ý.
* Sự khác biệt:
+ “Tây Tiến”: sử dụng hàng loạt địa danh để cụ thể hóa nỗi nhớ, sử dụng nhuần nhuyễn bút pháp lãng mạn trong khi viết về hiện thực. Thể thơ 7 chữ.
+ “Việt Bắc”: đa địa điểm (đỉnh núi, sa mạc, làng quê, lò lửa), thời gian khác nhau (trăng núi, nắng chiều, chập tối), thể thơ lục bát làm cho nỗi nhớ mang đậm chất dân gian.
Lý do cho sự khác biệt:
+ Giải thích hoàn cảnh sáng tác và phong cách nghệ thuật của từng nhà thơ.
III. Cuối cùng:
– Cả hai bài thơ đều thể hiện nỗi nhớ da diết về một địa danh cụ thể trên mảnh đất đầy kỉ niệm. Dù là nỗi nhớ người yêu, chúng ta đều hiểu nỗi niềm nhớ nhung da diết của hai nhà thơ. Họ không chỉ nhớ về một địa danh nào đó, mà còn là nơi cất dấu những kỷ niệm, tình yêu kháng chiến, những khó khăn đã trải qua và hơn thế nữa là tình quân dân. Từ đây có thể coi “Tài Tiến” của Quang Dũng và “Việt Bắc” của Tố Hữu là hai bài thơ trữ tình đặc sắc trong nền thơ ca cách mạng. Với phong cách thể hiện hoài niệm độc đáo của mỗi nhà thơ, ta thấy được cá tính sáng tạo đặc biệt của họ, để lại ấn tượng khó phai trong lòng người đọc.