Cảm nhận tâm trạng tuyệt vọng của Thúy Kiều qua 8 khổ thơ cuối của “Ở lầu Kiều Ngưng Bích”.
“Buổi chiều nhìn cửa nát,
Thuyền ai xuôi chèo mát xa?
Thật buồn khi thấy nước mới đổ ra,
Hoa trôi về đâu?
Thật buồn khi nhìn buồn
Chân mây xanh đất xanh.
Thật buồn khi thấy gió thổi vào mặt bạn,
Tiếng sóng ầm ĩ quanh ghế ngồi”
Tám câu thơ cuối của đoạn văn Đó là lầu Kiều Ngưng Bích khẳng định tài năng của Nguyễn Du trong việc miêu tả nội tâm của con người cho đến cấp độ biện chứng của tâm hồn. Lớp ngôn ngữ sinh động, giàu sức biểu đạt, chỉ với 16 dòng, Nguyễn Du Thúy Kiều đã nắm bắt được tâm trạng bối rối khi một mình trên lầu cao.
Thuở ban đầu, bi kịch nội tâm của Kiều trong những lần lưu lạc được nhà văn thiên tài miêu tả bằng một hình thức ngôn ngữ nghệ thuật đặc biệt sắc sảo. Những vần thơ buồn mênh mang trong lòng người đọc gieo bao nỗi xót xa nghiệt ngã về kiếp người “tài hoa mà bất hạnh”.
Bị Tú Bà lừa dối, làm nhục sau khi “thua cuộc” trước Mã Giám Sinh, Kiều đã dùng dao thắt cổ tự tử. Sợ mất “hàng” quý giá, anh ta đã can thiệp và lập một kế hoạch mới để đưa Kiều Ngưng Bích lên sàn. Chàng hứa sẽ tìm cho Thúy Kiều một tấm chồng phù hợp, nhưng thực chất đó chỉ là sự thỏa hiệp để tìm cách lừa gạt Kiều.
Thân gái nơi đất khách quê người, tâm hồn Kiều đầy khắc khoải, bơ vơ. Trong những ngày giông bão, khủng khiếp vừa qua, con đường phía trước đầy mây mù và cạm bẫy khiến anh cảm thấy chua xót và tủi thân vô cùng. Giờ đây ông sống một mình trên lầu Ngưng Bích với bao tâm trạng “bẽ bàng”, ông chán chường không biết giải bày cùng ai. Nỗi nhớ như sóng dậy trong lòng. Kiều nhớ cha mẹ già yếu, không người nương tựa, cảm thông ngoài “chiếc quạt nóng lạnh”. Nàng nhớ đến chàng Kim trong những đêm trăng nguyền, nàng nghĩ đến mình trong cảnh “góc trời quạnh hiu…” mà lòng bùi ngùi.
Nỗi nhớ rồi tê tái nỗi buồn, hoang mang và sợ hãi thường trực. Nỗi buồn như xé nát trái tim và đè nén tâm hồn anh. Bài thơ 8 câu đầy xót xa đau thương. Nhà thơ đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ ngôn và lấy cảnh thiên nhiên làm nền cho sự vận động nội tâm của nhân vật trữ tình. Còn đâu khung cảnh quen thuộc trong khu vườn của Thủy? Một nơi xa lạ và đáng sợ hiện ra trước mắt Kiều. Bài “Buổi trưa cửa bể” của Thấp thuyền ngoài xa gieo sầu vào lòng người vốn đã quá mệt mỏi:
“Buổi chiều nhìn cửa nát,
Thuyền ai xuôi chèo mát xa?
Hình ảnh con đò gợi cho ông nỗi nhớ quê hương, đường về sao mà xa vời vợi đến đau lòng. Tuyệt vọng khi nghĩ đến cơ hội trở về quê hương, Kiều nghĩ đến con đường phía trước nhưng mịt mù mây mù. Nước chảy, hoa bò như kẻ lẻ loi, bâng khuâng, chẳng biết mình đi về đâu:
Thật buồn khi thấy nước mới đổ ra,
Hoa trôi về đâu?
Không thể quay lại. Tôi không biết mình sẽ đi đâu nữa. Tương lai của Thúy Kiều là một ẩn số. Điều tồi tệ hơn là lời giải cho bí ẩn đó lại nằm trong tay những kẻ tham lam và nhẫn tâm. Sau khi bán mình, Kiều không còn khả năng tự quyết định về cuộc đời mình. Anh đã hoàn thành ước nguyện cứu cha và anh trai mình, nhưng bây giờ anh không thể tự cứu mình. Không may, tại sao thông minh? Điểm tuyệt vời là gì nếu bạn không thể tự mình làm chủ nó? Kiều nghĩ đến những ngày khủng khiếp sắp tới, nơi sẽ có những mưu mô, cả lòng tham và sự khinh bỉ của con người… Ôi! Ồ, có lẽ anh ấy đang nhảy múa, quay cuồng trong đầu. Bởi vậy, trời đất bỗng được tô vẽ một màu buồn tẻ, buồn tẻ:
Thật buồn khi nhìn buồn
Chân mây xanh đất xanh.
Màu xanh lại xuất hiện. Nhưng bây giờ nó không phải là màu của tuổi trẻ, của niềm tin và hy vọng. Trời dần tối, cuối cùng nhập vào bóng tối, giữa trời đất, hắn sẽ trốn đi đâu, biết tìm đâu? Không trả lời. Mọi người chìm trong im lặng khủng khiếp, rồi đột nhiên anh ta bắt đầu dữ dội:
Thật buồn khi thấy gió thổi vào mặt bạn,
Tiếng sóng vỗ quanh ghế.
Thúy Kiều cảm thấy trời đất đang nổi giông tố. Bên tai anh, còn sống, gió hú điên cuồng. Nếu không, đây cũng là cơn bão trong lòng ông, là tiếng kêu phản kháng trước thực tại phũ phàng, bất công, phũ phàng.
Nhiều nhà phê bình cho rằng anh rơi vào tuyệt vọng và rối loạn tâm thần hoàn toàn sau khi đến đây. Điều này cũng dễ hiểu bởi ta thấy Kiều dường như bất lực trước thực tại sau khi đã tìm đủ mọi cách để thoát ra. Hãy xem xét kỹ hơn. Trên thực tế, anh ấy rất tỉnh táo và dũng cảm. Trong những tình huống trớ trêu, anh không ngừng tìm kiếm giải pháp tối ưu cho mình.
Biết mình bị lừa bán, Thúy Kiều rút dao định tự tử. Anh thà chết chứ không chịu nhục. Đây là sự dũng cảm thể hiện nhân cách cứng rắn và cao đẹp của Kiều. Tuy nhiên, khi lên lầu Ngưng Bích, hắn không còn tìm đến cái chết một mình nữa. Anh không nhất thiết phải tin vào lời hứa của Tử Bân, anh biết những người như vậy sao có thể giữ lời hứa. Kiều thấy chữ nuôi không trọn, phận nuôi không trọn, chẳng dám về trước mặt cha mẹ đầu xanh. Đối với người xưa, đạo hiếu là lẽ sống cao cả nhất, đáng trân trọng nhất. Ông không sợ chết, nhưng lo rằng lòng hiếu thảo không thành, ông đã phạm vào tội bất luân, vô đạo đức. Điều này càng khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của Thúy Kiều khiến người đời nhớ mãi.
Nguyễn Du đã thành công trong việc giữ gìn phẩm hạnh của Thúy Kiều. Chi tiết đó thể hiện tình yêu thương vô hạn của nhà thơ đối với kiếp người nhỏ bé, bất hạnh, tội nghiệp giữa cuộc đời này. Trái tim con người thấu suốt những suy nghĩ và rung động tinh tế nhất của con người để khám phá và ghi lại nó. Quả thật, thầy Mộng Liên Đường ca ngợi tấm lòng cao cả ấy: “Nguyễn Du có mắt thấy sáu cõi, lòng suy ngàn đời” cũng không hẳn là nói ngoa. Mỗi câu thơ, mỗi hình ảnh, mỗi ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên, miêu tả ngoại cảnh đều có ý nghĩa và giá trị như một ẩn dụ, biểu tượng cho tâm trạng buồn bã, đen tối của kiếp người trong chốn dương gian, trầm mặc.
Nguyễn Du cũng rất thành công trong việc vận dụng ngôn ngữ dân tộc vào bài thơ. Hệ thống từ láy: xa xăm, man mác, mập mạp, xanh xanh, ầm ầm tạo âm điệu da diết, u sầu, sợ hãi. Mở đầu câu thơ, bốn lần “buồn trông” nghe như một tiếng than thở, một tiếng kêu buồn, thể hiện nét nổi trội chi phối tâm trạng Thúy Kiều, khiến người đọc vô cùng xúc động.
Nghệ thuật miêu tả tình yêu của Nguyễn Du vô cùng điêu luyện. Cảnh giới tâm linh. Cảnh và cảm hài hoà, sinh động, có tính hình tượng, biểu cảm. “Người buồn chẳng bao giờ cố vui!” bằng cách lấy cảnh để cắt nghĩa tình, lấy cảnh để tả tình, lấy cảnh để diễn tả tâm trạng. Mỗi cảnh đều được đặc trưng bởi nỗi đau, sự lo lắng và nỗi buồn cho cô gái đã mất.
Bài thơ có giá trị nhân văn sâu sắc. Nó đánh thức trong mỗi chúng ta một nỗi niềm thương người tri kỉ mà bất hạnh. Thái độ yêu thương trước nỗi đau của Thúy Kiều, thái độ ân cần, cảm thông, sẻ chia của nhà thơ đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc qua bao thế kỷ:
“Bỗng nhiên nàng Kiều như sinh mệnh quốc gia
Lời quyết tâm vượt trăm sóng Tiền Đường
Kim đến lau nước mắt
Và đêm đó chiếc lư thổi hương.
(“Sóng Kiều” – Chế Lan Viên)
Những vần thơ trên của Chế Lan Vie đã gợi lên trong lòng ta cuộc đời bất hạnh của người con gái tài sắc Thúy Kiều và ta cảm động biết bao trước tấm lòng nhân đạo cao cả của thi hào nhân dân Nguyễn Du.