Cảm nhận bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Việ
Chế Lan Viên là nhà thơ lãng mạn nổi tiếng với tập thơ “Cái chết” trước Cách mạng tháng Tám. Sau cách mạng, Chế Lan Viên đi kháng chiến chống Pháp hầu như im lặng. Hòa bình lập lại ông có thơ hay. Bài thơ “Em đọc con tàu” trích trong tập thơ “Ánh sáng và phù sa” là một bài thơ hiện thực đáp lại tiếng gọi của Tổ quốc khai hoang Tây Bắc. Viết về nghĩa vụ lịch sử nhưng nhà thơ không diễn đạt một cách chung chung mà viết bằng một tình cảm chân thành, thiết tha. Tổ quốc tươi đẹp và anh hùng trở thành một hình ảnh thơ sáng ngời ánh sáng trí tuệ. Tâm hồn nhà thơ hóa thành con tàu mộng trở về với nhân dân và cũng là với chính trái tim mình.
Chế Lan Viên mở đầu bài thơ bằng bức thư tuyệt mệnh thể hiện sự lo lắng của nhà thơ trước nhiệm vụ trọng đại của đất nước:
“Tây Bắc? Tây Bắc có gì đặc sắc?
Khi trái tim tôi biến thành tàu
Khi đọc Vatan ở mọi nơi
Tâm hồn tôi là Tây Bắc, không còn nữa”
Chế Lan Viên nhạy bén trước những nhiệm vụ chính trị của Đảng và của dân tộc. Tác giả đã biến nhiệm vụ chung (khai hoang Tây Bắc) thành nhiệm vụ riêng của mỗi người, sâu xa hơn thành nhiệm vụ của “tâm hồn ta”.
“Tâm hồn tôi là Tây Bắc, còn đâu nữa?”
Đó là chuyến tàu của những giấc mơ (xưa có chuyến tàu lên Tây Bắc), một biểu tượng phù hợp với hình ảnh chuyến xe gợi lên những giấc mơ lãng mạn:
“Bạn có nghe thấy tiếng gió không?
Ngoài cửa sổ, con tàu đói khát hàng tháng trời.”
Tác giả cũng kêu gọi mọi người lên đường khai hoang Tây Bắc, không phải chỉ vì Tây Bắc, mà để mở lối sống chật hẹp, dọn đường cho sáng tạo, cho thơ ca:
“Đất nước rộng đời em nhỏ
Tàu gọi bà đi sao bà bầu lại đi?
Không có thơ trong một trái tim khép kín
Linh hồn của tôi đang chờ đợi để gặp bạn ở đó.”
Nhà thơ đã biến cuộc ra đi thành một ngã rẽ. Trở về “nơi giọt máu thấm hồn tôi xuống đất”. Và thậm chí nghiêm túc hơn “hãy cho tôi gặp mẹ thân yêu của tôi.” Và thậm chí còn thánh thiện hơn:
“Ta gặp lại người như nai về suối cũ
Cỏ mừng tháng 2, én đón mùa
Như đứa trẻ đói khát tìm thấy sữa
Đột nhiên chiếc nôi đang đứng chạm vào bàn tay đang dang ra”
Những so sánh bất ngờ, những chi tiết đột ngột làm cho dòng suy nghĩ trở nên lung linh và thay đổi hơn là khô khan.
Nhà thơ đã gợi lại những kỉ niệm sâu sắc về cuộc trường kỳ kháng chiến với đồng bào Tây Bắc. Ký ức giống như một cuộn phim. Hình ảnh người dân được nhà thơ gọi là mahram. “Nhớ người em, người em du kích”, “Nhớ người em, người em đã liên lạc”, “Nhớ mẹ, tóc bạc thắp lửa đỏ”. Qua từng chi tiết đầy cảm xúc, nhà thơ muốn nói với chúng ta rằng, con người Tây Bắc thật anh hùng và nhân hậu.
Rồi Chế Lan Viên dẫn dắt triết học. Hiện thực cũng chỉ là cái cớ cho triết lý của nhà thơ:
“Nhớ bản sương mù, lối đi mây phủ
Trái tim ở đâu mà không có tình yêu?
Nơi chúng ta ở là nơi chúng ta ở
Khi tôi rời đi, trái đất đã trở thành một linh hồn!”
Người đọc khâm phục Chế Lan Viên đã phát hiện ra những quy luật của tình cảm và đời sống tâm hồn con người. Nhà thơ dẫn người đọc đến triết lý bằng âm nhạc và hình ảnh:
“Nhớ bản sương, nhớ lối mây phủ”
Từ “nhớ” vừa thể hiện sự da diết của cảm xúc, vừa củng cố nhạc điệu cho câu thơ. Về hình ảnh, ở những dòng trên, nhà thơ đặt lăng kính vào từng khuôn mặt thân thương, ruột gan. Đến đây, nhà thơ lại kéo ống kính khắc họa núi rừng Tây Bắc bằng hình ảnh sương, cùng “hơi sương”, “đèo mây”, những hình ảnh hư ảo của núi rừng Tây Bắc. những làn khói của nỗi nhớ. Nhà thơ nói với lòng mình như cầu xin sự đồng cảm của mọi người:
“Ngươi đi đâu, ngươi không thích?”
Câu thơ của Chế Lan Vie gợi nhớ câu thơ của Hồng Nguyên:
“Chúng ta đang đi
Mang lại cuộc sống di động
Tôi không thể nhớ tên làng từ nhiều nơi
Tôi nghĩ về nhà của nhiều người
Tôi nhớ hàng tre lộng gió
Làng lên xuống cùng một mái nhà tranh.
(Cô)
Nhưng Chế Lan Viên dẫn đến triết luận hơn là tự sự:
“Nơi chúng tôi ở, nó làm cho một kỳ nghỉ
Khi tôi rời đi, trái đất đã trở thành một linh hồn!”
Hai khổ thơ được đặt đối lập để diễn tả hai trạng thái của tâm hồn con người, đồng thời những cách ám chỉ, liên tưởng tạo nên một giọng điệu dễ khô khan cho chất thơ triết lí. Tác giả đã phát hiện ra quy luật cảm xúc phổ quát từ chính suy nghĩ của mình. Nhà thơ đã nói hộ ta về tình người gắn bó với quê hương, với đất khách quê người. “Đất” cụ thể đã trở thành “hồn” trừu tượng. Hai câu thơ quá Chế Lan Viên!
Từ triết lí, nhà thơ bỗng chuyển sang thể hiện những rung động cụ thể, cá nhân. Thơ tứ tuyệt thay đổi lạ lùng, nhưng không phá vỡ, vì ông vẫn tư duy không vấn đề:
“Anh chợt nhớ em như mùa đông nhớ lạnh
Tình em như kiến vàng
Khi mùa xuân đến, lông chim rừng chuyển sang màu xanh
“Tình yêu làm cho đất xa lạ với quê hương.”
Một khổ thơ giống như một lối rẽ trong rừng mở ra một cảnh quan mới. Nhưng rồi ta vẫn nhận ra giọng Chế Lan Vie. Ngay từ cảm xúc, hình ảnh cụ thể cũng nhường chỗ cho những suy nghĩ triết học. Câu thơ nhấn mạnh thêm cảm xúc cá nhân là phấn khởi. “Bỗng nhớ như đông, nhớ lạnh” những so sánh rất lạ, lấp lánh không phải bằng cảm xúc thuần túy mà bằng trí tuệ. Mặc dù chính nhà thơ đã nghiêm túc nói “Tình ta như cánh hồng vàng”, nhưng đó không phải là cảm xúc cá nhân; nhưng “nói chung,” như Juan Dieu nói. Sự tỏa sáng của màu “cánh kiến hoa vàng” như “lông chim rừng” là sự tỏa sáng của trí tuệ. Tác giả dường như đã phát hiện ra mọi mối liên hệ mật thiết giữa mùa đông với cái lạnh và của mùa xuân với “tiếng chim rừng bầm dập”. Và sự nhạy cảm về âm nhạc, hình ảnh và màu sắc để chuẩn bị cho một triết lý mới:
“Tình nhớ quê hương”
Mọi người đều cảm thấy triết học và thấm nhuần nó. Và đó là cách tác giả đi đến chiều sâu của chủ đề “Tiếng hát con tàu”. Rồi nhà thơ kêu gọi lên đường xây dựng quê hương Tây Bắc. Mọi kỉ niệm, hoài niệm, triết lí đều nhằm thực hiện nhiệm vụ lịch sử này:
“Tổ quốc gọi hay lòng ta?”
Tình con đợi, tình mẹ đợi
Hãy vỗ cánh thật nhanh
Mắt em mong mái ngói đỏ”.
Xây dựng quê hương Tây Bắc cho “mẹ”, “em” ai không nghiêm túc, không tâm huyết? Đặc biệt với các thi nhân, Tây Bắc còn là nguồn cảm hứng, nguồn sáng tạo, nguồn thơ, là giá trị tinh thần thiêng liêng nên “ngày trở về” thật ý nghĩa biết bao!
“Tây Bắc em là mẹ hồn thơ
Mười năm chiến tranh vàng ta đau đáu
Hãy quay lại ngay bây giờ, tôi sẽ lấy lại vàng của mình.”
Trong lời thơ có những tình cảm khẳng định tám lòng trung nghĩa của nhà thơ trong ca dao, lòng trung với quê hương:
– Anh yêu em từ trong nôi
Tôi nằm, tôi khóc, bạn ngồi, tôi sẽ im lặng
– Lấy vàng và qua sông
Vàng rơi không tiếc, anh xin lỗi đã ôm vàng
Tác giả kết bài Con tàu đọc bằng những ý tưởng lãng mạn đẹp đẽ và tình yêu nồng cháy (tình đời thì rộng, tình em thì hẹp):
“(…) Ai bảo con tàu không mơ?
Một tháng không uống rượu mỗi đêm
Trái tim tôi như một con tàu, và tôi uống
Nho hồng trong mùa xuân tuyệt vời”
Khi tinh thần Chế Lan Vi đã đổi mới, nhà thơ đã nhạy bén trước những nhiệm vụ của cách mạng. Khi đất nước cần mở mang Tây Bắc, Chế Lan Vỹ đã có bài thơ hưởng ứng chiến tranh, đáng quý là thơ hay, vượt hẳn thơ minh họa trung bình. Chất trí tuệ vốn có của nó được bồi đắp bằng những cảm xúc mới mẻ, cách mạng đã làm nên sức hấp dẫn của “Đọc về con tàu”. Tiếc thay, một tài năng ngôn ngữ siêu phàm như ông, qua việc dùng sai những từ có ý nghĩa thiêng liêng như từ “mẹ” khiến người đọc có chút nghi ngờ về tình cảm thực sự của nhà thơ. Một thời, nhiều học sinh, sinh viên, trí thức say mê thơ ông, thích thú với những khám phá triết lý trong thơ ông:
“Nơi chúng tôi ở, nó làm cho một kỳ nghỉ
Khi tôi rời đi, trái đất trở thành một linh hồn.”