Cảm nhận 2 khổ thơ đầu bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận.
Sóng trào dâng mang tin buồn,
Thuyền hạ xuống song song với nước,
Thuyền về nước, trăm đường buồn;
Cành khô của gỗ được đặt trong một số dòng.
Một cơn gió nhỏ, du dương là lộn xộn,
Còn đâu tiếng làng xa chợ chiều.
Mặt trời đang lặn, bầu trời thăm thẳm;
Sông dài, trời rộng, bến lẻ loi.
(Tràng Giang – Huy Cận)
Đề cương đề xuất:
Giới thiệu về tác giả Huy Cận, bài thơ Tràng Giang, bài thơ cần phân tích.
* Trình bày ngắn gọn hoàn cảnh sáng tác của bài thơ
* Câu 1: Tràng Giang xuất hiện trong thơ cổ với nhiều hình ảnh đẹp: dòng sông, con thuyền, sóng,…
– Nhưng cảnh đẹp lại chứa đầy nỗi buồn sâu thẳm.
– Hai từ “điệp điệp” gợi hình ảnh những đợt sóng nhẹ nhàng nhấp nhô, đan xen nhau. Khoảnh khắc ấy, sóng sông và thiên nhiên trở thành sóng lòng nhà thơ, với bao nỗi buồn cứ lặp đi lặp lại trong lòng.
– Nếu như trước đây thuyền và nước là hai thứ không thể tách rời thì bây giờ lại thờ ơ như thể không thể hòa hợp.
– Nhà thơ tình cờ gặp một cành củi khô “Mấy hàng củi biến mất” là hình ảnh tượng trưng tượng trưng cho kiếp người như nhà thơ lênh đênh giữa dòng đời bơ vơ, bấp bênh. bão?
⇒ Tác giả xót xa trước sự chia ly, chia lìa của sự vật, xót xa trước thân phận con người bé nhỏ, bất trắc giữa cuộc đời.
* Câu 2:
– Khổ thơ đầu: Huy Cận đinh ninh rằng mình học được ý tưởng từ hai khổ thơ của Chinh phụ ngâm: “Non Kỳ lẻ loi trăng treo/ Bến Phì gió thổi mấy gò”.
– Từ láy thể hiện sự rời rạc, thưa thớt của những ngọn đồi nhỏ mọc lên giữa dòng sông, gợi cảm giác hoang vắng, hiu quạnh, hoang vắng, xơ xác.
– Hai chữ “trầm mặc” như khoét sâu thêm nỗi buồn u uất và làm cho câu thơ ngân lên như một tiếng thở dài.
– Đó là tiếng chợ phiên mơ hồ, theo gió lan xa, quyện vào nỗi trống trải, hiu quạnh.
– Một không gian ba chiều rộng lớn “Nắng lặn trời sâu/ Sông dài trời rộng hiu quạnh” ⇒ Đây là nỗi kinh hoàng của tinh thần con người trước sự vô tận của vũ trụ.
⇒ Nhà thơ cảm thấy cô đơn lớn lao, cảm thấy mình nhỏ bé trước vũ trụ rộng lớn, lạc lõng giữa cuộc đời.
* Tỷ lệ: Hai khổ thơ đầu là nỗi niềm của một tâm hồn cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, ngăn cách. Tình người, tình yêu cuộc sống và lòng yêu nước nồng nàn thấm đượm trong ông…
– Nghệ thuật:
+ Sự thống nhất hài hòa giữa sắc thái cổ điển và hiện đại (Cổ điển: thể thơ bảy chữ; hình ảnh thơ quen thuộc trong văn học trung đại. ý nghĩa; cảm xúc buồn man mác dấu vết của cái “tôi” cá nhân…)
+ Nghệ thuật tương phản, lối hành văn về mặt tạo hình, hệ thống từ ngữ giàu giá trị biểu cảm.
Trân trọng giá trị của bài thơ, tài năng của tác giả…
- Chứng minh: “Tràng Giang nối tiếp mạch thơ truyền thống bằng sự cách tân chân chính”
- Hình ảnh thiên nhiên trong hai bài thơ “Tràng Giang” (Huy Cận) và “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử).
Bài viết tham khảo:
Thơ là nhạc cụ đẹp đẽ của tâm hồn, nó thể hiện thành công mọi cung bậc cảm xúc của con người, vui, buồn, cô đơn, tuyệt vọng. Con người có những tâm trạng như thế chỉ có thể diễn đạt qua thơ, nên thơ không chỉ nói lên nỗi lòng của mình mà còn nói lên những lo lắng, suy nghĩ về sự đổi thay của thế giới khi nhìn thấy tâm hồn nhiều cảm xúc bé nhỏ trước vũ trụ không bột, Huy Cận “Tràng giang”, đặc biệt qua hai dòng đầu bài thơ, ta cảm nhận rõ điều đó.
“Sóng lăn tăn buồn thương
Thuyền tiếp đất song song với mặt nước.
Thuyền về nước lại buồn,
Cành gỗ khô nằm thành nhiều hàng
Một cơn gió nhỏ, du dương là lộn xộn,
Còn đâu tiếng làng xa chợ chiều?
Mặt trời đang lặn, bầu trời thăm thẳm,
Sông dài, trời rộng, bến lẻ loi.
Hai khổ thơ là sự miêu tả thiên nhiên hùng vĩ, sông nước, đồng thời cũng là tâm hồn buồn, đa cảm đầy cảm xúc không thể diễn tả thành lời.
Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã sử dụng một số thi liệu trong bài thơ “thuyền và sóng” của Huy Cận Đường. Đây là một bức tranh đẹp nhưng rất buồn, Hoài Thanh khi nói về nhà phê bình này đã nhận xét rằng trong thơ mới, thiên nhiên đẹp nhưng lại buồn đến nao lòng. Nỗi buồn đó được bộc lộ trong câu nói của Huy Cận lúc bấy giờ, chúng ta có một nỗi buồn đó là nỗi buồn của thế hệ chưa kịp làm gì cho nước đã mất nước mất nhà tan.
“Sóng dâng lên với nỗi buồn và nỗi buồn,
Con thuyền đi xuống từ mái nhà song song.
Điệp từ gợi tả một cách tinh tế hình ảnh sóng nước. Những con sóng đó truyền đi vô tận từ lớp này sang lớp khác. Ở đây nhà thơ miêu tả nỗi buồn của thiên nhiên hay nỗi buồn của con người, có thể là cả hai vì Nguyễn Du đã từng viết.
“Cảnh nào không sầu,
Một cảnh buồn nơi mọi người luôn vui vẻ.”
Dường như tâm trạng buồn được tô vẽ bên ngoài cảnh vật để nỗi buồn ấy dậy sóng trong lòng nhà thơ.
Thuyền và nước là hai thứ luôn song hành với nhau nhưng trong trường hợp này lại bất lực và lạc lõng. Con đò là sự hiện diện của đời người nhưng là thoáng hiện trong chốc lát, “con đò trên mui” là một hình ảnh thực, nhưng cũng đầy suy tư, gợi nhớ những hình ảnh của tiền kiếp. anh ấy không biết mình đang đi đâu. Phải chăng chính Huy Cận đã nhận lấy hình bóng này trong cuộc đời “ Đứng giữa hai dòng nước hãy chọn dòng nước tốt cho nước chảy”.
“Con tàu trở về nhà với nỗi buồn và nỗi buồn,
Cành củi khô nằm thành nhiều hàng.
Con thuyền và cành cây khô là hai hình ảnh được sử dụng rất táo bạo, họ đang rong ruổi trên sông. Huy Cận đã nhiều lần nhắc đến nỗi buồn mùa thu trong thơ mình, ở đây ta gặp một nỗi buồn khác, xã hội cũ trong cuộc đời của một con người nhỏ bé trăm lối sầu, chỉ 3 chữ và cùng một cành cây khô, nếu mọi chất liệu hình ảnh đưa vào thơ trong thơ ca trung đại là hình ảnh gọt giũa, tùng, cúc, trúc, mai được chọn thì Tràng Giang đưa vào hình ảnh Huy Cận, một bức ảnh rất đời thường: củi khô.
Phải chăng cành khô ấy cũng chính là nỗi cô đơn mà tác giả đánh mất trong lòng, khi bắt gặp cành khô ấy, tác giả đã phải đối diện với những vận hạn lớn của trời đất từ đó nỗi buồn như tan biến. thế hệ thanh niên yêu nước. Vẫn là bức tranh màu nước ấy, nhưng được vẽ với nhiều đất hơn, nhiều quê hơn, nhưng nỗi buồn tê tái vẫn còn đó, đánh thức bởi sự tàn tạ của đồi cỏ, sự hiu quạnh của gió và sự trống trải của cảnh vật. .
“Mặc kệ ngọn gió cô đơn và ngọn cỏ,
Còn đâu tiếng làng xa chợ chiều?
Chúng tôi đã gặp nhau trong “Fath”:
“Chỉ có trăng treo quanh trăng,
Gió thổi bay mấy gò đất trên bến.
Dường như ngọn gió lẻ loi vượt thời gian và không gian trôi vào thơ Huy Cận. Từ “nhàn” diễn tả một tập hợp thưa thớt, rời rạc các đảo nhỏ mọc trong dòng “Tràng Giang”. Trên những ngọn đồi ấy có hình ảnh của lau sậy xơ xác, lụi tàn khi gió thổi qua.
Câu thơ như đi sâu hơn vào tâm hồn nhà thơ, thấm đượm, khiến ông càng bơ vơ, muốn tìm hơi ấm tình người. “Tiếng làng xa” ở đâu không biết, tiếng nghe rất mơ hồ, nhưng lại là tiếng chợ, càng nghe càng buồn, cũng là viết về chợ, nhưng hình ảnh trong Thơ Nguyễn Trãi hiện lên thật mãnh liệt.
“Chợ cá ở làng chài”
Vui nhất là tiếng chợ vui, buồn nhất là tiếng chợ van. Cái tinh tế của Huy Cận ở đoạn thơ này là ở chỗ ông dùng động tác nói khẽ, dùng âm thanh chợ búa để gợi lên cái không khí tĩnh mịch của không gian, đồng thời thể hiện niềm khát khao được đồng điệu, giao cảm của con người, dù chỉ là để nghe. .
Có ý kiến cho rằng dòng Tràng Giang là một nỗi buồn mênh mang. Đúng vậy, và ở hai câu thơ tiếp theo, nỗi buồn của bản chất con người bị tác giả hạn chế.
“Mặt trời đang lặn, bầu trời thăm thẳm,
Sông dài, trời rộng, bến lẻ loi.
Đến đây, nhà thơ đã vẽ ra một không gian ba chiều rộng lớn gồm chiều cao, chiều dài và chiều rộng, nhà thơ đang đứng trên bến đò cô đơn, nơi giao thoa của vũ trụ đối lập giữa không gian lớn và cái tôi nhỏ bé. từng mảng nắng chiếu xuống mặt nước phản chiếu trên bầu trời và không gian, như thể xui xẻo cho anh “sâu thăm thẳm” là từ không chỉ dùng để nói về độ sâu mà còn để nói về độ cao, nó mang lại cảm giác đến người đọc. từ nỗi khiếp sợ về không gian và khi đứng trước không gian ấy, con người càng trở nên đáng thương, nhỏ bé hơn.
Cuộc đời là điểm xuất phát của thơ, là đối tượng khám phá, là mục đích cuối cùng. Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống và để lại ấn tượng lâu bền trong lòng người đọc. Đến với Tràng giang của Huy Cận ta như phát hiện ra những tâm tình phó thác của nhà thơ, nghe thấy tiếng thở dài tuyệt vọng của nhà thơ trước cảnh đất nước chìm trong khói lửa và chiến tranh thần tốc, sự kết hợp hài hước, hài hòa giữa các cổ điển và hiện đại, giống như sử dụng. nhiều thi pháp trong thơ cổ, ngôn từ giản dị giàu hình ảnh, tất cả đã làm nên thành công cho Tràng Giang của Huy Cận.
Tác phẩm đã kết thúc, nhưng mỗi lần đọc hết bài thơ, nhất là hai dòng đầu, ta lại thấy nỗi buồn của tác giả trước khung cảnh thiên nhiên kỳ vĩ. Nếu phân tích hai dòng thơ đầu của bài thơ Tràng Giang, có lẽ bởi dù Tràng Giang ra đời đã lâu nhưng Tràng Giang không hề bị lớp bụi thời gian làm lu mờ, vẫn sáng mãi trong lòng người đọc. yêu thơ bao thế hệ. .