sự kiện tượng trưng
I. Khái niệm:
Biểu tượng (tiếng Anh: symbol, tiếng Pháp: symbole) theo nghĩa rộng, biểu tượng là hình tượng được biểu đạt ở cấp độ ký hiệu, ký hiệu hàm chứa nhiều nghĩa của hình tượng.
Chủ nghĩa tượng trưng là một thiết bị tu từ đại diện cho một đối tượng dự định được mô tả theo quy ước xã hội. Người ta thường chấp nhận rằng từ này có thể được sử dụng để biểu thị một đối tượng khác với nội dung ngữ nghĩa thông thường của nó.
Trong văn học, tượng trưng được hiểu là nghệ thuật sử dụng những hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp trong biểu đạt nghệ thuật: “trăng”, “hoa”, “ngọc”, “tuyết”… nói về vẻ đẹp con người.
II. đặc trưng.
Chủ nghĩa tượng trưng không hướng tới mô tả cụ thể và tỉ mỉ, mà hướng tới nghệ thuật gây ảnh hưởng và thuyết phục người đọc thông qua phán đoán và trí tưởng tượng.
Ví dụ:
“Thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.”
(Truyện Kiều)
Nguyễn Du không tả đôi mắt Kiều mà gợi vẻ đẹp của đôi mắt nàng bằng hình ảnh. Tùy theo trí tưởng tượng và sự hiểu biết của mỗi người về vẻ đẹp của mùa thu nước và núi mùa xuân mà người ta có thể hình dung ra vẻ đẹp của đôi mắt Kiều.
Kiếp sau xin đừng làm người
Chơi cây thông đứng trên trời
Ở giữa những tảng đá
Những người chịu lạnh leo lên một cây thông.
(Nguyễn Công Trứ)
III. Kết cấu:
Phương pháp tượng trưng dựa trên sự liên tưởng giống và khác biệt lôgic.
* Ẩn dụ tượng trưng:
Sự khác biệt là thẳng và sắc nét
Máy cắt cỏ đứng cùng nhau có thể xếp sau liên tiếp.
(Nguyễn Công Trứ)
* Biện pháp tượng trưng ẩn dụ:
Đứng trên cành cỏ
Búa liềm không sợ gươm độc.
(dành cho Hữu)
Tất cả các biểu tượng đều là hình ảnh (và hình ảnh là biểu tượng ở các mức độ khác nhau), nhưng phạm trù biểu tượng đề cập đến phần mà hình ảnh vượt qua chính nó, sự hiện diện của một ý nghĩa nào đó vừa hài hòa với hình ảnh. hình ảnh.
Chẳng hạn, Sơn Tinh và Thủy Tinh ngoài ý nghĩa trực tiếp là hai tình nhân trong truyền thuyết còn tượng trưng cho một điều gì đó sâu xa mà người ta có thể diễn giải khác nhau. Hình ảnh đối tượng và ý nghĩa chức năng là hai cực không thể tách rời của biểu tượng (tách khỏi hình ảnh thì ý nghĩa sẽ mất đi tính trực quan, nhưng khi tách khỏi ý nghĩa thì hình ảnh sẽ phân giải thành các yếu tố), nhưng tính biểu tượng lại bộc lộ thông qua cả hai. sự tách biệt và liên kết giữa chúng.
Nhập một ký tự, hình ảnh trở nên “trong suốt”; ý nghĩa sẽ tỏa sáng qua nó, trở thành ý nghĩa có ý nghĩa với chiều sâu và góc nhìn của nó.
Chủ nghĩa tượng trưng về cơ bản khác với phúng dụ: ý nghĩa của một biểu tượng không thể được giải mã bằng những nỗ lực lập luận vì nó có nhiều nghĩa. Cấu trúc ngữ nghĩa của biểu tượng là nhiều lớp và nó có tính đến cam kết của người nhận.
Đó là một hình thức chuyển ngữ theo nghĩa bóng (tương tự như ngụ ngôn). Khi kết hợp hai phương diện: nội dung “đối tượng” và nghĩa bóng của nó sẽ tạo thành sự tương ứng về mặt biểu tượng. Mỗi yếu tố của hệ thống nghệ thuật (ẩn dụ, ví von, tả phong cảnh, chi tiết, nhân vật,…) đều có thể tượng trưng. Nhưng chúng có mang tính biểu tượng hay không còn phụ thuộc vào các dấu hiệu:
Cô đọng khái quát nghệ thuật, ví dụ bức tranh buổi sáng trong bài Giải quyết sớm Hồ Chí Minh, hình ảnh Đèn được bảo vệ Chính Hữu.
Dụng ý của tác giả là chỉ ra ý nghĩa tượng trưng của những gì ông miêu tả trong bài, chẳng hạn hình ảnh hoa sen và các vì sao. Theo chân Bác Hồ của Tố Hữu.
Bối cảnh tác phẩm, hệ thống sáng tác của nhà văn thể hiện ý nghĩa tượng trưng không phụ thuộc vào dụng ý miêu tả cụ thể của tác giả, chẳng hạn, ý nghĩa của hình ảnh hoàng hôn trong tiểu thuyết của Dot – Khtoevsky. Bối cảnh văn học của thời kỳ, chẳng hạn: nhân vật trẻ, nước trong văn học Việt Nam đầu thế kỷ, v.v.
Việc nghiên cứu các đặc điểm và cấu trúc biểu tượng trong nghệ thuật cho phép hiểu sâu sắc bản chất nghệ thuật của hình tượng văn học, khắc phục cách hiểu đơn thuần về các hình tượng sao chép hiện thực.